Lịch sử Xã Lương Sơn và các đơn vị hành chính trực thuộc
ỦY BAN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ
XÃ LƯƠNG SƠN HUYỆN THƯỜNG XUÂN
I ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN HÀNH CHÍNH.
1.1/ Địa giới xã:
1 | Đập Hón dường | Ngọc Thượng | 1985 | 2,0 km | 27 ha | ||
2 | Đập Trác trong | Ngọc Thượng | 1976 | 1,5 km | 15 ha | ||
3 | Đập Hón khiếng | Lương Thịnh | 1975 | 1km | 2,0 km | 15 ha | |
4 | Đập Hón ón | Lương Thịnh | 1888 | 2,2 km | 30 ha | ||
5 | Đập Na Mó | Ngọc Sơn | 1995 | 1km | 2,5 km | 35 ha | |
6 | Đập Đông Thành | Ngọc Sơn | 1986 | 1,5 km | 20 ha | ||
7 | Đập Hón Mùn | Trung Thành | 1984 | 1km | 2,0 km | 42 ha | |
8 | Đập 21 | Trung Thành | 1980 | 2,5 km | 34 ha | ||
9 | Đập Hón Sán | Lương Thiện | 2004 | 0,5km | 3,0 km | 47 ha | |
10 | Đập Hồ Sen | Lương Thiện | 1982 | 1,0 km | 16 ha | ||
11 | Đập Pa Lai | Minh Quang | 1979 | 2 km | 1,5 km | 37 ha | |
12 | Đập cây Thị | Minh Ngọc | 1978 | 2,0 km | 18 ha | ||
13 | Đập Hua Na | Minh Ngọc | 1,0 km | 14 ha | |||
14 | Đập Tá Lấc | Minh Ngọc | 1985 | 1,5 km | 15 ha | ||
Tổng | 7 Thôn | 5,5km | 26,2km | 365 ha |
1) Thôn Ngọc Thượng: 7,2 ha
2) Thôn Lương Thịnh: 11,2 ha
3) Thôn Ngọc Sơn: 15,6 ha
4) Thôn Lương Thiện: 14 ha
5) Thôn Trung Thành: 16 ha
6) Thôn Minh Quang: 8 ha
7) Thôn Minh Ngọc: 5,2 ha
- Các loại vườn trại, đồi núi:
1) Thôn Ngọc Thượng: 72,8ha
2) Thôn Lương Thịnh: 79,8 ha
3) Thôn Ngọc Sơn: 114,4ha
4) Thôn Lương Thiện: 106 ha
5) Thôn Trung Thành: 157 ha
6) Thôn Minh Quang: 82 ha
7) Thôn Minh Ngọc: 54,89 ha
- Đất sản xuất nông nghiệp hiện nay: Toàn xã tổng: 7130,02 ha
- Đất sản xuất Lâm nghiệp hiện nay: Toàn xã tổng: 6208,34 ha
Năm | CÂY LÚA | CÂY NGÔ | CÂY KHOAI LANG | CÂY SẮN | ||||
DIỆN TÍCH (HA) | SẢN LƯỢNG (TẤN) | DIỆN TÍCH (HA) | SẢN LƯỢNG (TẤN) | DIỆN TÍCH (HA) | SẢN LƯỢNG (TẤN) | DIỆN TÍCH (HA) | SẢN LƯỢNG (TẤN) | |
1995 | 201 | 1913/2Vụ | 50 | 150 | 38 | 152 | 95 | 3800 |
1996 | 201 | 1956/2Vụ | 50 | 153 | 39 | 158 | 91 | 3900 |
1997 | 201 | 1965/2Vụ | 52 | 156 | 40 | 162 | 92 | 4000 |
1998 | 201 | 1987/2Vụ | 53 | 159 | 42 | 168 | 95 | 3764 |
1999 | 201 | 1962/2Vụ | 52 | 157 | 41 | 164 | 93 | 3890 |
2000 | 201 | 2000/2Vụ | 50 | 160 | 41 | 163 | 95 | 3879 |
2001 | 201 | 1976/2Vụ | 50 | 152 | 43 | 169 | 97 | 3864 |
2002 | 201 | 1954/2Vụ | 53 | 164 | 39 | 157 | 95 | 3954 |
2003 | 201 | 1986/2Vụ | 52 | 162 | 38 | 158 | 93 | 3987 |
2004 | 201 | 1998/2Vụ | 52 | 163 | 38 | 153 | 94 | 3678 |
2005 | 201 | 2000/2Vụ | 53 | 168 | 38 | 154 | 96 | 4015 |
-
+ Giống lúa: Q5;838; Nhi ưu 63; X21;Tin iu
+ Giống ngô: 999,
-
+ Cây mía: 421, 33 ha. Hàng năm đạt từ 25260 đến 28000 tấn mía/năm
+ Cây ăn quả: 71 ha.
-
Năm | TRÂU BÒ | LỢN | GIA CẦM | |||
TỔNG ĐÀN (CON) | SẢN LƯỢNG XUẤT CHUỒNG (TẤN/NĂM) | TỔNG ĐÀN (CON) | SẢN LƯỢNG XUẤT CHUỒNG (KG/NĂM) | TỔNG ĐÀN (CON) | SẢN LƯỢNG XUẤT CHUỒNG (KG) | |
1995 | 1324 | 25 | 3768 | 302463 | 13456 | 20184 |
1996 | 1301 | 24 | 3482 | 297867 | 14165 | 21456 |
1997 | 1298 | 22 | 3486 | 289566 | 14562 | 21356 |
1998 | 1296 | 21 | 3490 | 301245 | 13654 | 20156 |
1999 | 1292 | 20 | 3520 | 291282 | 13587 | 20423 |
2000 | 1289 | 19 | 3585 | 267893 | 15362 | 22135 |
2001 | 1287 | 18 | 3579 | 289643 | 14865 | 21546 |
2002 | 1276 | 19 | 3540 | 291235 | 11369 | 18863 |
2003 | 1273 | 18 | 3569 | 289678 | 12458 | 19684 |
2004 | 1264 | 17 | 3568 | 297626 | 11256 | 18364 |
2005 | 1235 | 19 | 3640 | 291200 | 10290 | 17624 |
II.3. Công nghiệp.
-
+ Thời gian xây dựng: năm 2002.
+ Diện tích 3 ha
+ Quy mô sản xuất nhỏ
+ Số lượng công nhân: 60 công nhân
II. 4.. Tiẻu thủ công nghiệp. địa phương không có.
II.5. Công nghiệp khai khoang sản.
-
+ Mỏ Crom mit: Đã được khai thác từ năm 1992 đến nay với hình thức nhỏ lẻ chưa tập chung, chỉ là cá nhân khai thác đem đi bán.
+ Mỏ đồng: Khai thác từ thời Pháp thuộc, với hình thức nhỏ lẻ.
+ Đất Cao lanh: Đã được khai thác từ năm 1999 đến nay do các công ty sán xuất gạch ốp lát đến khai thác. Trữ lượng ít khoảng vài chục ha, lộ thiên, độ sâu không 100m.
* Hình thức khai thác: Chỉ dùng máy múc và vận chuyển bằng ô tô.
- Còn có mỏ thiếc chưa được khai thác.
II.6. Lâm nghiệp.
-
-
+ Diện tích khoanh nuôi: 524,4 ha
+ Diện tích trồng rừng 5 năm: 303,5 ha
+ Diện tích rừng sản xuất: 138 ha
+ Diện tích cây ăn quả: 71,6 ha
+ Diện tích trồng rừng bổ sung năm nay là 28,2 ha
II.7. Ngư nghiệp.
-
-
+ Chủ yếu là các loại cá như: Cá Trăm, cá chép, cá mè, cá rô phi,
+ Dịch vụ chế biến thuỷ sản: Không có.
-
-
II.8. Thương nghiệp.
a. Trước cách mạng tháng 8, năm 1945.
-
-
b. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay.
-
+ Chợ Lương sơn được thành lập từ 4 tháng 3 năm 1979. Họp các ngày chính trong tháng đó là phiên ngày 04 - 09 - 14 - 19 - 24 - 29 (Âm lịch) Nằm ngay tại ngã 3 xã lương sơn, thuộc địa phận thôn Trung Thành, Nằm giáp với trục đường 507 là đường tỉnh lộ, là trung tâm giao lưu giữa xã và các xã bạn.Vị trí rất thuận lợi cho việc buôn bán củng là nơi trung tâm văn hoá kinh tế chính trị của xã.
+ Chợ Lương Thịnh: Được thành lập từ năm 1993. Họp các ngày chính trong tháng đó là phiên ngày 03 - 07 - 13 - 17 - 23 - 27 (Âm lịch) nằm trung tâm Thôn Lương thịnh. Trên trục đường liên huyện đi Lang Chánh., cách trung tâm xã 2,5 km . Chợ họp được có 1 năm do dân cư thưa thớt chợ bỏ dần không có người họp nên đã huỷ bỏ họp chợ trên .
-
+ Cung ứng dịch vụ ngày đó chủ yếu chỉ là bán dầu hoả (Tức dầu thắp đèn) muối, hàng phân phối. không đủ hàng cho người tiêu dùng.
+ Đến năm 1991 cửa hàng mua bán không còn bị giải thể do buôn bán không có hiệu quả.
+ Khi cửa hàng giải thể thì nhiều đại lý tư nhân buôn bán hàng hoá xuất hiện lúa đó hàng hoá ngày một đa dạng phong phú đáp ứng đủ nhu cầu phục vụ nhân dân.
-
Ông: Trần hợp Dũng Chủ nhiệm
Ông: Lê Dăng Lịch PCN
Ông: Lang Văn Mắn PCN
Bà: Trần thị Thu Kế toán
Ông: Phạm Văn Cao Thủ quỹ
-
-
II.9. Những tác động của tự nhiên.
- Các trận đại dịch bệnh:
Không có đại dịch sảy ra lớn. Chỉ sảy ra dịch sốt sốt rét kéo dài từ năm 1986 đến 1996. Nguyên nhân chủ yếu là do muỗi Ano phen mang ký sinh trùng sốt rét gây bệnh. Qua mười năm hoành hành đã cướp đi hơn 50 người trên toàn xã. Được sự quan tâm của Đảng uỷ, chính quyền các cấp, đăc biệt là ngành y tế Thanh hoá, trung tâm y tế Thường Xuân, đội phòng dịch huyện đã phối kết hợp với nhân dân địa phương đến năm 1996 đã bài trừ được dịch sốt rét. Từ khi có dự án lòng hồ Cửa Đặt năm 2004 hơn 100 hộ về Lương Sơn sinh sống, nên bệnh sốt rét lại đang phát triển. Nguyên nhân do các hộ ở vùng sốt sốt rét còn mang ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể chưa khỏi nên về xã lại bị sốt sốt rét.
- Các trận bão lũ lớn.
Các trận bảo lũ lớn đều ảnh hưởng cùng chung với tỉnh. Riêng chỉ có Ngày16 h 9/4 năm 1993 (Âm lịch) có một trận lốc xoáy sảy ra trên địa bàn xã Lương sơn. Cơn lốc xoáy với cường độ mạnh kèm theo mưa đá cụ thể đã gây thiệt hại cho xã là: Hơn 200 nóc nhà đã bị bê ra chỗ khác và sập đổ hoàn toàn. Hơn 200 ha lúa bị hỏng. Rất may không có ai bị chết chỉ có bị thương 4 người.Tổng thiệt hại ước tính gần một tỉ đồng năm.
- Nạn đói: Cùng chung với cả nước trên địa bàn xã chỉ sảy ra nạn đói năm 1945 (ất dậu).
II.10. Các đặc sản của địa phương.
Ơ
II.11. Các phong trào thi đua trên lĩnh vực kinh tế.
- Tuần lễ vàng (Sau năm 1945)
+ Trong xã năm đó không có ai ủng hộ
+ Phong trào hũ gạo tiết kiệm . Hưởng ứng phong trào hũ gạo tiết kiệm cũng đã tiết kiệm được hàng tấn gạo gửi ra tiền tuyến.
+ Phong trào bình dân học vụ. Lúc đó mọi người xuống chợ huyện phải biết đọc chữ cái mới được vào chợ. Chính vì thế mà nhiều người cũng đã biết chữ.
- Phong trào trồng cây gây rừng . Năm 1960 Hưởng ứng phong trào trồng cây gây rừng xã đã trồng được hết cây bên vệ đường, và một số đất đồi núi chọc.
III. CHÍNH TRỊ - VĂN HOÁ XÃ HỘI - GIÁO DỤC - Y TẾ.
a. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945.
+ Số dòng họ lớn ở địa phương:
*Gồm có dòng họ Lang, Họ Lương, Họ Vi, Họ Hà.
b. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945
- Tổ chức chính quyền:
+ Từ khi tách thành xã Lương sơn năm 1960 đến nay. Lúc đó là Uỷ ban hành chính xã Lương sơn.
* Người được bầu làm chủ tịch UBHC xã Lương sơn đầu tiên là ông............. từ năm 1960 -
* Tiếp đó đến ông:
Năm 1963 - 1965 Là Ông Vi Văn Khun
Năm 1965 - 1967 Là Ông Phạm Văn Hạnh
Năm 1967 - 1968 Là Ông Lương Xuân Phúc
Năm 1968 - 1970 Là Ông Hà Văn Tuyền
Năm 1971 - 1974 Là Ông Hà Văn Tuyền
Năm 1974 - 1976 Là Ông Lương Phi Thiên
Năm 1976 - 1978 Là Ông Vi Văn Mao.
Năm 1978 - 1982 Là Ông Hà Văn Nhân
Năm 1982 - 1986 Là Ông Trần Hợp Nhung.
Năm 1986 - 1989 Là Ông Cao Hồng Thái
Năm 1989 - 1994 Là Ông Lê Ngọc Bích
Năm 1994 - 2004 Là ông Lương Xuân Thìn
Năm 2004 - 2009 Là Ông Trần Hợp Bảng
* Phó chủ tịch UBND là các ông:
Năm 1965 - 1967 Là Ông Lương Xuân Phúc
Năm 1967 - 1968 Là Ông Lương Phi Thiên
Năm 1968 - 1970 Là Ông Lương Phi Thiên
Năm 1971 - 1974 Là Ông Phạm Văn Thái
Năm 1974 - 1976 Là Ông Vi Văn Mao
Năm 1976 - 1978 Là Ông Hà Văn Thái
Năm 1978 - 1982 Là Ông Nguyễn Hữu Bản
Năm 1982 - 1986 Là Ông Nuyễn Hữu Bản
Năm 1986 - 1989 Là Ông Lương Xuân Thìn
Năm 1989 - 1994 Là Ông Tạ Hồng Hà
Năm 1994 - 2004 Là ông Nguyễn Hữu Thuận
Năm 2004 - 2009 Là Ông Lương Xuân Thiêm Và Ông Lê Hữu Khánh
Bí Thư Đảng uỷ Xã Lương sơn qua các thời kỳ:
Trước năm 1960 Xã Lương sơn chỉ có chỉ có 2 đồng chí Đảng viên, sinh hoạt cùng chi bộ Ngọc phụng Xã Lương Ngọc cũ thuộc huyện Ngọc Lặc. Đến năm 1963, mới có chi bộ . Lúc đó ông Vi Văn Khun là bí thư chi bộ cho mãi đến năm 1968 mới có quyết định được tách thành Đảng bộ xã Lương sơn trước đây là cùng với Đảng bộ Ngọc Phụng. Lúc đó ông Lương Xuân Phúc là Bí thư Đảng uỷ đầu tiên cho đến 1974 .Tiếp đó là các ông:
Năm 1974 - 1976 Là Ông Phạm Tăng Cường
Năm 1976 - 1978 Là Ông Phạm Văn Thái
Năm 1978 - 1982 Là Ông Trần Hợp Nhung
Năm 1982 - 1986 Là Ông Hà Văn Thái
Năm 1986 - 1989 Là Ông Lê Ngọc Bích
Năm 1989 - 1994 Là Ông Lương Xuân Thìn
Năm 1994 - 2004 Là ông Trần Văn Quý
Năm 2004 - 2009 Là Ông Lê Xuân Lâm
* Thường vụ trực Đảng qua các thời kỳ:
Năm 1968 - 1977 là ông Lê Hữu Hợi
Năm 1977 - 1987 là ông Nguyễn Hữu Bản
Năm 1987 - 1990 là ông Lê Đức Thuận.
Năm 1990 - 1995 là ông Lê Đình Thắm
Năm 1995 - 1999 là ông Lương Văn Trọng
Năm 1999 - 2005 là ông Lê Xuân Lâm.
Năm 2005 - 2010 là ông Phạm Văn Thắng.
* Làm Công tác mặt trân qua các thời kỳ:(Năm 1968 - 1987 Trực Đảng kiêm công tác Mặt trận)
Năm 1968 - 1974 là ông Lê Đình Thiệng
Năm 1974 - 1977 là ông Lê Hữu Hợi
Năm 1977 - 1987 là ông Nguyễn Hữu Bản
Năm 1987 - 1990 là ông Lê Văn Gióng - Chủ tịchMTTQ xã Lương sơn
Năm 1990 - 1995 Là ông Lô Văn Mão - Chủ tịchMTTQ xã Lương sơn
Năm 1995 - 2002 là ông Lê Hữu Mùi - Chủ tịchMTTQ xã Lương sơn
Năm 2001 - 2003 là ông Nguyễn Hữu Thảng- Chủ tịchMTTQ xã Lương sơn
Năm 2003 - 2008 là Ông Nguyễn Hữu Thảng- Chủ tịchMTTQ xã Lương sơn.
* Chủ Tịch Hội Phụ nữ xã qua các thời kỳ:
Năm 1969 - 1979 là bà Nguyễn Thị Quy
Năm 1979 - 1984 là Bà Lang Thị Phong
Năm 1884 - 1997 là bà Nguyễn Thị Xâm
Năm 1997 - 2001 là Bà Lê Thị Hải
Năm 2001 - 2006 là bà Lê Thị Hải
* Chủ tịch hội nông dân qua các thời kỳ
Năm 1977 - 1981 là ông Vi Văn Tiến. - Hội trưởng hội nông hội
Năm 1981 - 1991 là ông Nguyễn Văn Chuyên - Hội trưởng hội nông hội
Năm 1991 - 1998 là ông Lê Đình Tỵ - Chủ tich Hội Nông dân.
Năm 1998 - 2001 là Ông Nguyễn Hữu Thảng - Chủ tich Hội Nông dân
Năm 2001- 2002 là ông Nguyễn Hữu Thành- Chủ tich Hội Nông dân
Năm 2002 - 2006 là ông Lê Doãn Cừ. - Chủ tich Hội Nông dân
* Bí Thư Đoàn xã qua các thời kỳ:
Năm 1960 - 1964 là ông Hà Văn Toán
Năm 1964 - 1968 là ông Lê Xuân Thiết.
Năm 1968 - 1978 là ông Lê Đình Thọ
Năm 1978 - 1882 là ông Vi Hồng Inh
Năm 1982 - 1987 là ông Lê Đức Thuận
Năm 1987 - 1994 là Ông Lê Văn Nhỡ
Năm 1994 - 1999 là Ông Trần Công Hiệp
Năm 1999 - 2001 là Ông Lê Văn Ánh
Năm 2001 - 2006 là Ông Lê Đình Sự.
* Chủ Tịch Hội Cựu chiến binh qua các thời kỳ
Năm 1993 Ông Vi Quyết Thắng là chủ tịch lâm thời
Năm 1994 - 1997 ông Nguyễn Quốc Nga là chủ tịch hội cựu chiến binh
Năm 1997 - 2002 ông Hà Văn Phương là chủ tịch Hội cựu chiến binh.
Năm 2002 - 2006 ông Hoàng Xuân Hùng là chủ tịch Hội cựu chiến binh.
3.2 Văn hoá xã hội.
- Các ngày lễ, tết, của làng xã.
+ Các ngày lễ: Riêng trong làng xã không có, chỉ theo các ngày lễ nhà nước quy định .
Đó là các ngày 3 tháng 2 Ngày Thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng uỷ thường phát động các phong trào lập thành tích xuất sắc, Mừng Đảng mừng xuân.
Ngày 27 tháng 2 ( ngày thày thuốc việt nam) Đảng uỷ - HĐND UBND thường đến chúc mừng các lương y, những người làm công tác y tế.
Ngày 8 tháng 3 Ngày Quốc tế phụ nữ. Hội phụ nữ xã thường tổ chức toạ đàm, phổ biến rộng rãi tới mọi chị em, vui chơi ca hát mừng ngày quốc tế phụ nữ,
Ngày 26 tháng 3 Ngày Thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ chí Minh. Đoàn xã thường tổ chức các phong trào văn hoá văn nghệ, chào mừng ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
Ngày 30 tháng 4 ngày giải phóng miền Nam, ngày 1 tháng 5, ngày quốc tế lao động. Hội cựu chiến binh thường tổ chức các phong trào thể dục thể thao như cầu lông, bóng chuyền, bóng đá để chào mừng ngày miền Nam hoàn toàn được giải phóng.
Ngày 19 tháng 5 (Ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh) xã thường phát động các phong trào thi đua lập thành tích chào mừng ngày sinh nhật Bác.
Ngày 1tháng 6 ngày quốc tế thiếu nhi. Đảng uỷ - HĐND - UBND - UBMTTQ, Ban giám hiệu các trường thường tổ chức trao phần thưởng động viên các cháu chăm ngoan học giỏi có thành tích trong học tập và các kỳ thi học sinh giỏi.
Ngày 27 tháng 7 (Ngày Thương binh liệt sỹ) Đảng uỷ - HĐND - UBND thường tổ chức lễ kỷ niệm để tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trao quà cho tất cả: bà mẹ việt nam anh hùng, các đồng chí Thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng. Thường xuyên chăm lo giúp đỡ các gia đình chính sách thực hiện đúng lời dạy của Bác "Uống nước nhớ nguồn".
Ngày 19 tháng 8 và quốc khánh 2 tháng 9. Đoàn thanh niên thường tổ chức cho các cháu thiếu niên cắm trại, Ban văn hoá thường có kế hoạch cho các chi đoàn giao hữu bóng đá, bóng chuyền. Với tinh thần "Cách mạng tháng 8 và quốc khánh 2 - 9 bất diệt"
Ngày 20 tháng 10 ngày phụ nữ Việt nam Hội phụ nữ xã thường tổ chức toạ đàm, phổ biến rộng rãi tới mọi chị em, vui chơi ca hát mừng ngày phụ nữ việt nam.
Ngày 20 tháng 11 (Ngày nhà giáo việt nam). Các trường trong xã thường hoạt đọng các phong trào văn hoá văn nghệ chào mừng ngày nhà giáo việt Nam. Đảng uỷ - HĐND - UBND - UBMTTQ tổ chức mít tinh kỷ niệm chúc mừng ngày nhà giáo việt nam.
Ngày 22 tháng 12 (ngày thành lập quân đội nhân dân việt nam). Xã thường tổ chức kỷ nệm ngày thành lập quân đội nhân dân việt nam. Ban văn hoá kết hợp với Hội cựu chiến binh, xã đội, Đoàn thanh niên tổ chức cho các đơn vị trong xã thi các môn như: Bóng đá, bóng chuyền, cầu lông , cờ tướng, cờ vua, bắn nõ, hội diễn văn nghệ quần chúng vv... và tổng kết các phong trào văn hoá văn nghệ thể dục thể thao trong năm.
+ Các ngày tết trong năm :
Tết đương lịch vào ngày 1 tháng 1 dương lịch, tết âm lịch vào các ngày 30 tháng 12 ngày cuối năm, và ngày 1,2,3 tháng 1 âm lịch (còn gọi là Tết nguyên đán).
Tết Thanh Minh(Còn gọi là tết nguyên tiêu) theo tục lệ của các làng, thì không đi tảo mộ chỉ tảo mộ vào ngày 30 tháng 12 (âm lịch hàng năm). Mà lại ăn tết vào 3 tháng 3 (âm lịch).
Ngày 5 tháng 5 âm lịch cũng ăn tết (Còn gọi là tết Đoan Ngọ).
Ngày 15 tháng 7 âm lịch(Ngày xoá tội vong nhân) theo tục lệ của làng thường hay đốt áo cho người chết.
Tết trung thu vào 15 tháng 8 (âm lịch) tết này thường hay tổ chức cho các cháu thiếu niên nhi đồng chơi các trò chơi.
- Các điều kiêng kỵ của làng xã:
+ Có những cái chung trong 2 dân tộc Mường và Thái cùng chung sống trên địa bàn xã. Khi bố, mẹ, ông, bà nội ngoại không may qua đời thì con trai hoặc con gái đến tuổi thành hôn mà muốn kết hôn thì phải được giỗ đầu tức sau 1 năm thì mới được cưới xin. Nhưng người kinh sống cùng trong xã thì khác Khi bố, mẹ, ông, bà nội ngoại không may qua đời thì con trai hoặc con gái đến tuổi thành hôn mà muốn kết hôn thì phải hết việc tức sau 3 năm thì mới được cưới xin. Nếu người nào mà không giữ được việc đó thì thường người ta cho rằng là có cưới xin thì về cũng không hay thuận vợ thuận chồng làm ăn thường không hay khá giả, hay ốm đau. Người Thái và người Mường khi đang chịu tang ông bà, bố, mẹ chỉ sau 1 tuần là có thể đến các đám cưới được . Người kinh khi đang chịu tang ông bà, bố, mẹ thường là sau 100 ngày thì mới đến các đám cưới. Ngày tết nguyên đán vào sáng mùng 1 cả 3 dân tộc ta người ta kiêng không quét nhà. Hoặc phải chọn người đến xông nhà.
Khi sinh con Người kinh thường hay kiêng sau 3 tháng mới đi làm . Nhưng người Thái khi sinh con (họ uống thuốc lá rừng) thường chỉ sau 10 ngày là họ đã đi làm rất ít trường hợp kiêng được như người kinh, kể các việc ăn uống, người Thái chỉ kiêng ăn lươn, trạch khi sinh còn những thứ khác họ vẫn ăn uống bình thường.
- Lệ làng, lệ bản, lệ Mường: Những tục lệ của người Thái, người Mường trước đây rất lạc hậu, mê tín. Thường như ốm đau hay cúng, bái, cầm vía , mời thầy cúng cầu mong cho bệnh được chóng khỏi. Người chết thường để trong nhà làm ma 3 ngày. Đám cưới thường tổ chức linh đình ăn uống cả tuần, thách cưới rất cao Từ năm 1975 tới nay thì các cấp uỷ Đảng chính quyền đã cấm những hủ tục quá lạc hậu này. Ngày nay thực hiện nếp sống văn hoá đặc biệt là từ khi khai trương làng, cơ quan văn hoá trong xã đến nay. Các hủ tục lạc hậu đã xoá bỏ được. Người chết không được để làm ma quá 24 giờ.Người mang bệnh truyền nhiễm không để quá 12 giờ. ốm đau phải đem đến trạm xá, bệnh viện, đến các thầy thuuốc để chữa bệnh tuyệt đối không được mời thầy cúng. Tổ chức cưới xin đơn giản theo nếp sống mới, không thách cưới, không ăn uống linh đình tổ chức lâu ngày, không thức, vui chơi, quá 22 giờ.
- Khoán ước, hương ước : Từ khi khai trương làng ,cơ quan văn hoá đến nay chỉ có 3 làng có hương ước 2 cơ quan có quy ước . Đều quy định theo luật
- Các gia phả : Không có
- Sắc phong : Không
- Câu đối:không
- Văn bia (văn bản viết, bản chữ hán, bản dịch): Không
- Các di tích lịch sử văn hoá - Danh thắng : Không
+ Đình : Không
+ Đền : Không
+ Nghè: Không
+ Miếu: Không
+ Am: Không
+ Điện: Không
+ Văn chỉ: Không
3.3. Giáo dục.
a. Trước cách mạng tháng 8năm 1945
- Số người biết chữ nho trong làng là khoảng hơn 20 người nhưng đã chết từ lâu.
- Số người biết chữ Thái: Nghe kể lại rằng chỉ vài ba người biết chữ Thái nhưng đẫ chết từ lâu.
- Số người đỗ đạt khoa bảng: Không.
b. Kết quả giáo dục từ năm 1958 đến nay:
* Trường tiểu học Lương sơn 1:
Năm 1958, tại xã Lương sơn, trường phổ thông đầu tiên được thành lập (Thực ra đây là 1 phân hiệu của trường Lương Ngọc , xã Lương sơn và xã Ngọc phụng ngày nay). Thời gian này nhà trường chỉ chỉ có 1 lớp 1 với 13 học sinh do thầy La Khắc Hiệu làm hiệu trưởng. Trường đóng trên địa bàn làng Phạ thuộc Thôn Trung Thành.
Đến năm học 1961 - 1962 nhà trường có đủ học sinh toàn khối (Từ lớp 1 đến lớp 4). Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên.
Đến năm học 1966 - 1967, nhà trường đã có học sinh cấp II được học tại trường (Lớp 5 nhô) do Thầy Trần Văn Hân làm chủ nhiệm Thầy dạy cả tự nhiên và xã hội. Thầy Lê văn Bảo làm hiệu trưởng . Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên.
Đến năm học 1967 - 1968, theo chủ trương của Đảng , nhà nước và Bộ giáo dục, nhà trường đã được tách làm 2 trường đó là trường phổ thông cấp II và trường phổ thông cấp I . Trường phổ thông cấp 1 do Thầy Nguyễn Văn Châm làm hiệu trưởng đây chính là tiền thân của trường tiểu học ngày nay. Lúc này trường có 2 khu: Khu chính đặt tại lang Phạ Thôn Trung Thành. Khu lẻ đặt tại làng Trác Thôn Ngọc Thượng. Tổng số có 10 lớp 11 giáo viên với gần 300 học sinh. Trong giai đoạn chiến tranh ác liệt, giặc Mỹ ném bom giữ dội miền bắc, Trường phải sơ tán vào rẫy mùn thôn Trung Thành. Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên.
Năm 1970 - 1971, nhà trường có 12 lớp, 11 giáo viên, hơn 300 học sinh. Lúc đó do chiến tranh ác liệt, thầy giáo hiệu trưởng, Nguyễn văn Châm lên đường nhập ngũ. Cô giáo lê Thị Tuân hiệu phó nhà trường lên làm hiệu trưởng. Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên.
Cho đến năm 1977 - 1978, theo chủ trương của Bộ giáo dục về việc sát nhập các trường cấp 1 và cấp II trong cùng 1 xã thì Lương sơn đã sát nhập 2 trường làm một sau 10 năm chia tách. Trường phổ thông cơ sở Lương sơn được thành lập lúc đó Thầy Trần Quốc Nghị làm hiệu trưởng. Thời kỳ này nhà trường có 30 lớp 30 giáo viên, gần 1000 học sinh . Địa điểm vẫn nằm ở làng phạ thôn Trung Thành. Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên. Cũng năm học đó nhà trường được Ban định canh định cư đầu tư xây dựng 4 phòng học cấp 4 được đặt tại Thôn Ngọc Sơn . Năm 1979 - 1980 trường lại được đầu tư xây dựng thêm 4 phòng học cấp 4.
Năm 1980 - 1981 trường có 36 lớp cấp 1, 8 lớp cấp 2 gần 1800 học sinh 62 cán bộ giáo viên . Có 8 phòng học cấp 4 ở khu chính còn đâu là nhà tranh tre nứa lá. Đặc biệt là các khu lẻ không có nhà xây nào đều là tranh tre nứa lá.
Năm 1981 - 1992 trường liên tục có từ 1900 - 2200 học sinh cả 2 cấp có 48 lớp gần 70 cán bộ giáo viên. 2 cán bộ giáo viên 7 + 2 , 1 giáo viên 10 + 3, 8 giáo viên cao đẳng sư phạm, 3 giáo viên 9 + 3, 56 giáo viên 12 + 2 Địa điểm trung tâm trường vẫn nằm trên thôn Ngọc Sơn.
Năm 1992 - 1993 , do sự phát triển mạnh mẽ về số lượng học sinh trường phổ thông cơ sở Lương sơn được tách làm 2 trường đó là Trường phổ thông cơ sở do thầy Trần Đăng Sơn làm hiệu trưởng . Trường phổ thông cấp 1 Lương sơn II do Thầy Trịnh Thái Bình, làm hiệu trưởng.(Nay là trường TH Lương sơn 2).
Đến năm 1997 - 1998 Trường phổ thông cơ sở Lương sơn lại được tách làm 2 trường , đó là: Trường trung học cơ sở Lương Sơn do cô Lê Thi Loan làm hiệu trưởng. Trường tiểu học Lương sơn 1 do Thầy Nguyễn Quốc Hoàn làm hiệu trưởng. Lúc này trường tiểu học 36 lớp 43 cán bộ giáo viên. Có 3 giáo viên 9 + 3 ; 1 giáo viên đại học, 41 giáo viên 12 +2. Trường cấp II có 11 lớp, 355 học sinh.
Năm học 1999 - 2000 có 39 lớp, hơn 1000 học sinh, 47 cán bộ giáo viên - công nhân viên. Có 3 giáo viên 9 + 3 ; 1 giáo viên đại học; 43 giáo viên 12 + 2. Cơ sở vật chất vẫn như cũ.
Đến năm học 2004 - 2005 , được sự quan tâm của Đảng nhà nước, sự đóng góp của nhân dân địa phương nhà trường đã được đầu tư xây dựng 19 phòng học kiên cố, cao tầng của chương trình "Xoá tranh tre" và Dự án ADB tài trợ và như vậy nhà trường đã chuyển về khu trườn mới hiện nay. Trường luôn có trên 30 lớp và trên 700 học sinh gần 39 Cán bộ giáo viên - công nhân viên. Có 3 giáo viên đại học, 2 giáo viên cao đẳng, 34 giáo viên trung học.Tiếp như thế cho mãi đến năm học 2005 - 2006 vẫn duy trì như thế.
Thành tích của Trường tiểu học Lương sơn 1:
Năm học 1982 - 1983 đến năm học 1984 - 1985 . Trong 3 năm liền nhà trường được UBND tỉnh tặng khen là đơn vị "Tiên tiến xuất săc" các tổ trong nhà trường đều đạt tổ lao động XHCN. Năm học 1984 - 1985 được giải nhất toàn đoàn trong đợt hội thao giáo dục toàn huyện về phong trào giáo dục. Năm học 1997 - 1998 nhà trường đã được công nhận trường tiên tiến cấp huyện . Các năm tiếp theo nhà trường vẫn đạt được danh hiệu này. Năm học 2001 - 2002 nhà trường được công nhận là tiên tiến cấp tỉnh. Năm học 2002 - 2003 , trong hội khoẻ phù đổng cấp huyện nhà trường đã giành vị trí thứ 2 toàn đoàn. Từ năm học 1997- 1998 đến năm học 2005 - 2006 Có 16 cán bộ giáo viên, đạt danh hiệu chiến sỹ thi đua cấp huyện. 12 cán bộ giáo viên giỏi cấp tỉnh. 29 giáo viên giỏi cấp huyện, 122 học sinh giỏi cấp huyện và cấp tỉnh tỷ lệ học sinh lên lớp luôn đạt 96,7% trở lên . Được công nhận hoàn thành chương trình tiểu học là 100%. Đã đăng ký xây dựng trường chuẩn quốc gia.
*Trường trung học cơ sở Lương sơn:
Tháng 8 năm 1966, nhà trường bắt đầu có học sinh cấp II được học tại trường (Lớp 5 nhô) do Thầy Trần Văn Hân làm chủ nhiệm, thầy dạy cả tự nhiên và xã hội . Thầy Lê Văn Bảo làm hiệu trưởng. Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên.
Năm học 1967 - 1968 Cấp II có 2 lớp, đó là lớp 5 và lớp 6 tổng có 35 học sinh. Lúc đó thầy Lê Xuân Thiên dạy tự nhiên, Thầy Trần văn Hân dạy môn xã hội. Thầy Lê Văn Lưu làm hiệu trưởng. Trường được tách riêng ra cấp II.
Năm học 1968 - 1969 trường đã có 3 lớp cấp II, với 65 học sinh có 4 thầy cô giáo, do thầy Trần văn Hân làm hiệu trưởng.
Năm học 1969 - 1970 trường cấp II có 4 lớp , 95 học sinh trường vẫn đóng ở làng phạ Thôn Trung Thành. Cơ sở vật chất rất nghèo nàn trường tranh vách nứa, bàn ghế cũng luồng nứa.
Giai đoạn từ 1970 - 1977. Trường thường có 8 lớp với 245 học sinh, có 9 giáo viên Thầy Trần văn Hân làm hiệu trưởng.
Năm học 1977 - 1978, theo chủ trương của Bộ giáo dục về việc sát nhập các trường cấp 1 và cấp II trong cùng 1 xã thì Lương sơn đã sát nhập 2 trường làm một sau 10 năm chia tách. Trường phổ thông cơ sở Lương sơn được thành lập lúc đó Thầy Trần Quốc Nghị làm hiệu trưởng. Thời kỳ này nhà trường có 30 lớp 30 giáo viên, gần 1000 học sinh . Địa điểm vẫn nằm ở làng phạ thôn Trung Thành. Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên. Cũng năm học đó nhà trường được Ban định canh định cư đầu tư xây dựng 4 phòng học cấp 4 được đặt tại Thôn Ngọc Sơn . Năm 1979 - 1980 trường lại được đầu tư xây dựng thêm 4 phòng học cấp 4.
Năm 1980 - 1981 trường có 36 lớp cấp 1, 8 lớp cấp 2 gần 1800 học sinh 62 cán bộ giáo viên . Có 8 phòng học cấp 4 ở khu chính còn đâu là nhà tranh tre nứa lá. Đặc biệt là các khu lẻ không có nhà xây nào đều là tranh tre nứa lá.
Năm 1981 - 1992 trường liên tục có từ 1900 - 2200 học sinh cả 2 cấp có 48 lớp gần 70 cán bộ giáo viên. Địa điểm trung tâm trường vẫn nằm trên thôn Ngọc Sơn.
Năm 1992 - 1993 , do sự phát triển mạnh mẽ về số lượng học sinh trường phổ thông cơ sở Lương sơn được tách làm 2 trường đó là Trường phổ thông cơ sở do thầy Trần Đăng Sơn làm hiệu trưởng . Trường phổ thông cấp 1 Lương sơn II do Thầy Trịnh Thái Bình, làm hiệu trưởng.(Nay là trường TH Lương sơn 2).
Năm học 1994 - 1995 số học sinh cấp II là 159 em với 5 lớp. 9 giáo viên
Năm học 1995 - 1996 số học sinh cấp II là 183 em với 6 lớp. 9 giáo viên
Năm học 1996 - 1997 có 7 lớp và 254 học sinh.11 giáo viên
Đến năm 1997 - 1998 Trường phổ thông cơ sở Lương sơn lại được tách làm 2 trường , đó là: Trường trung học cơ sở Lương Sơn do cô Lê Thi Loan làm hiệu trưởng. Trường tiểu học Lương sơn 1 do Thầy Nguyễn Quốc Hoàn làm hiệu trưởng. Lúc này trường tiểu học 36 lớp 43 cán bộ giáo viên. Trường cấp II có 11 lớp, 355 học sinh. Địa điểm này được tách ra làm 2 bên ngoài là trường trung học cơ sở Lương sơn bên trong là trường tiểu học Lương sơn 1. Về cơ sở vật chất thì trường trung học phải nhận toàn bộ tranh tre nhường 8 phòng học cấp 4 cho tiểu học Lương sơn 1.
Giai đoạn từ năm 1998 - 2001 số học sinh phát triển mạnh mẽ từ 11 lớp đã lên tới 16 lớp. 18 cán bộ giáo viên, 1 giáo viên 10 + 2 17 giáo viên có trình độ Cao đẳng sư phạm. Về cơ sở vật chất vẫn như vậy
Năm học 2001 - 2002 Trường trung học Lương sơn được chuyển vào khu địa điểm mới cũng thuộc địa phận Ngọc sơn. Cơ sở vật chất đều tranh tre nứa lá. Cô Lê Thị Loan làm hiệu trưởng với 18 lớp hơn 652 học sinh. 21 cán bộ giáo viên. Có 1 Giáo viên có trình độ Đại học, 20 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm.
Năm học 2002 - 2003 , trường có 19 lớp với 667 học sinh và 30 cán bộ giáo viên. Có 3 giáo viên có trình độ đại học , 27 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm.
Năm học 2003 - 2004 nhà trường đã có 20 lớp với 667 học sinh và 32 cán bộ giáo viên. Có 4 giáo viên có trình độ đại học 27 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm, 1 công nhân viên có trình độ trung học. Được sự quan tâm của Đảng nhà nước Trường trung học cơ sở Lương sơn được dự án CI DA CANADA tài trợ đã xây được 20 phòng học 2 tầng kiên cố. 1 nhà văn phòng với tổng vốn xây dựng 1.350.000.000đồng.
Năm học 2004 - 2005 với 20 lớp học 35 cán bộ giáo viên, Có 4 giáo viên có trình độ đại học 30 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm, 1 công nhân viên có trình độ trung học.(Có 4 giáo viên đang hàm thụ đại học). Ngày 15 tháng 8 năm 2004 nhà trường được bàn giao 20 phòng học 2 tầng và 5 gian nhà hiệu bộ với đầy đủ các điều kiện, phương tiện bàn ghế, điện thắp sáng, quạt trần. Cũng năm này nhà trường được Công Đoàn giáo dục huyện Thường Xuân xây cho 5 phòng cấp 4 nhà ở giáo viên. Đảng uỷ HĐND - UBND đã xây dựng cho trường trung học toàn bộ tường rào đường trước và cổng ra vào có cánh cửa sắt, đường ra lối vào đã được lát gạch láng xi măng.
Năm học 2005 - 2006 với 20 lớp học 35 cán bộ giáo viên, vẫn là cô Lê Thị Loan làm hiệu trưởng. Có 4 giáo viên có trình độ đại học 30 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm, 1 công nhân viên có trình độ trung học.(Có 4 giáo viên đang hàm thụ đại học). 1 Giáo viên đang học co học. Cơ sở vật chất khang trang, có tương đối đầy đủ các phương tiện dạy và học. Được dự án ADB tài trợ xây dựng tiếp 3 phòng học cấp 4A để cho học các môn phụ như: nhạc, , thí nghiệm.
Thành tích đạt được của trường:
Năm học 1969 có 15 em dự thi tốt nghiệp đã đậu 14 em. cũng năm này có 4 em đậu vào trường 7 + 3 và 7 + 2.
Năm 1970 - 1971. Trường đạt tiên tiến cấp huyện, Công Đoàn xuất sắc của ngành giáo dục.
Năm học 1982 - 1983 đến năm học 1984 - 1985 . Trong 3 năm liền nhà trường được UBND tỉnh tặng khen là đơn vị "Tiên tiến xuất săc" các tổ trong nhà trường đều đạt tổ lao động XHCN. Năm học 1984 - 1985 được giải nhất toàn đoàn trong đợt hội thao giáo dục toàn huyện về phong trào giáo dục.
Năm học 1997 - 1998 có 2 học sinh là học sinh giỏi tuyến huyện. tỷ lệ học sinh thi đậu tốt nghiệp lớp 9 là 92,5%.
Năm học 2001 - 2002 có 3 em học sinh giỏi cấp huyện. 95 em học sinh lớp 9 dự thi tốt nghiệp đạt 98%.
Năm học 2002 - 2003 Có 5 em học sinh giỏi cấp huyện 1 học sinh giỏi cấp tỉnh.. Học sinh lớp 9 đật tốt nghiệp đạt 92%.
Năm học 2003 - 2004. Có 5 học sinh giỏi cấp huyện , 4 đồng chí giáo viên dạy giỏi cấp huyện. Tỷ lệ học sinh dự thi tốt nghiệp lớp 9 là 92,3%.
Năm học 2004 - 2005. Có 4 giáo viên có giờ dạy giỏi tuyến huyện, 1 giáo viên có giờ dạy giỏi tỉnh. 1 chiến sỹ thi đua. Công Đoan nhà trường 2 năm liền đạt xuất sắc của liên đoàn huyện. Trường đạt danh hiệu tiên tiến cấp huyện. Có 11 học sinh giỏi cấp huyện ở các môn, có 2 em học sinh giỏi năng khứu cấp tỉnh về năng khứu. lớp 9 thi tốt nghiệp đạt 99, 3%. Trường đã hoàn thành phổ cập trung học.
*Trường tiểu học Lương sơn II
Năm 1992 - 1993 , do sự phát triển mạnh mẽ về số lượng học sinh trường phổ thông cơ sở Lương sơn được tách làm 2 trường đó là Trường phổ thông cơ sở do thầy Trần Đăng Sơn làm hiệu trưởng . Trường phổ thông cấp 1 Lương sơn II do Thầy Trịnh Thái Bình, làm hiệu trưởng.(Nay là trường TH Lương sơn 2). Gồm có học sinh 2 thôn đó là thôn Lương Thịnh và Thôn Ngọc Thượng. Trường chính được đặt tai trung tâm thôn Lương Thịnh. khu lẻ đặt tai làng Trác Thôn Ngọc Thượng. Trường liên có từ 8 đến 10 lớp, 230 - 275 học sinh với 13 cán bộ giáo viên. Trình độ đào tạo có 1 thầy Trình độ cao học. 2 thày trình độ đại học. 10 giáo viên trung học .
- Số học sinh giỏi cấp quốc gia qua các năm: Không
- Số trường đạt chuẩn quốc gia : Không.
34. Y tế:
a. Công tác phát triển y tế từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay:
- Tram y tế xã có 1 trâm y tế, được thành lập tháng 6 năm 1958
- Tổng số cán bộ: 3 ;
- Trình độ đào tạo : Sơ học.
- Giường bệnh: Có 2 giường.
- Ông Lương Phú Xuân làm trưởng trạm.
* Đến năm 1966 , trạm y tế do ông Vi Quyết Chiến; y sỹ làm trưởng trạm.
- Có 4 cán bộ 1 y sỹ và 3 y tá sơ học; 3 giường bệnh.
* Từ năm 1975 - 1980 . Trạm y tế có 4 cán bộ do ông Lê văn Dong Y sỹ làm trưởng trạm. 3 cán bộ sơ học. 4 giường bệnh.
*Từ năm 1981 - 1987. Trạm y tế có 3 cán bộ do ông Vi Quyết Chiến Y sỹ làm trưởng trạm , 2 cán bộ sơ học, 4 giường bệnh.
* Từ năm 1987 - 2006 trạm y tế có 7 cán bộ , 6 giường bệnh, do bà Tạ Thị Thành làm trạm trưởng.
b. Thành tích đạt được trong những năm qua:
- Được sở y tế tỉnh Thanh hoá khen.
- Đạt chuẩn quốc gia về y tế năm 2005.
- Có vườn thuốc đông y với 60 cây thuốc các loại chữa các bệnh thông thường tại trạm y tế.
IV ĐẤU TRANH CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM TỪ XƯA ĐẾN NAY.
Không có sử sách nào, ghi lại các cuộc đấu tranh, chống giặc ngoại xâm, từ trước cách mạng tháng 8 năm 1945 về trước, và các cụ cao niên trong làng, xã, cũng không rõ đối với xã Lương sơn .
4.1. Trong kháng chiến chống Pháp:
a) Những đóng góp về người:
-
1.
2.
3.
-
TT | HỌ VÀ TÊN | NĂM SINH | NHẬP NGŨ | ĐƠN VỊ NHẬP NGŨ | XUẤT NGŨ | CƯ TRÚ | GHI CHÚ |
(1) | (2) | (3) | (4) | (5) | (6) | (7) | (8) |
1 | Lương Văn Liên | 1931 | 4/1948 | D.118 | 8/1950 | L. Thiện | |
2 | LươngXuân Sang | 1933 | 6/1953 | E.359 | 2/1959 | L. Thiện | |
3 | Lang Văn Toan | 1926 | 3/1948 | D.118 | 8/1951 | M.Ngoc | |
4 | Đỗ Văn Khuê | 1928 | 3/1951 | D.304 | 3/1959 | N. Sơn | |
5 | Vi Văn Hắng | 1924 | 9/1946 | D118 | 5/1954 | L. Thiện | |
6 | Nguyễn viết Hợi | 1934 | 8/1952 | D.305 | 7/1957 | T.Thành | |
7 | Trần Hợp Ngãi | 1934 | 10/1953 | F.308 | 10/1957 | N.Sơn | |
8 | Lê Đình Tỵ | 1927 | 9/1949 | F.325 | 5/1955 | M.Quang | |
10 | Lê Xuân Lương | 1923 | 2/1949 | E.57 | 6/1956 | N.sơn | |
11 | Nguyễn Hữu ỷ | 1926 | 2/1949 | 2/1949 | 9/1958 | N.Sơn | |
12 | Trịnh Huy Văn | 1920 | 4/1947 | E.57 | 8/1956 | M.Quang | |
13 | Trương Đình Sáu | 1929 | 6/1952 | F.335 | 7/1958 | L.Thiện | |
14 | Hà Đình Ty | 1921 | 6/1950 | E.44 | 5/1954 | L.Thiện | |
15 | Đỗ Xuân Khoán | 1918 | 5/1951 | C.140 | 2/1955 | M.Quang | |
16 | Lê Xuân Sừ | 1926 | 4/1947 | F.308 | 6/1950 | T.Thành | |
17 | Lò Xuân Quy | 1923 | 4/1948 | D.118 | 8/1950 | T. Thành | |
18 | Phạm Văn Bằng | 1923 | 9/1954 | D.325 | 9/1959 | T.Thành | |
19 | PhạmTăngCường | 1930 | 3/1948 | D.118 | 8/1951 | L.Thịnh | |
20 | Vi Minh Tiến | 1930 | 3/1948 | D.118 | 8/1951 | L.Thịnh | |
21 | Hà Văn Thưởng | 1926 | 3/1948 | D.118 | 8/1951 | M.Ngọc | |
22 | Ngô Văn Mão | 1927 | 2/1952 | D.304 | 1/1960 | N.Sơn | |
23 | Lê Hữu Mùi | 1928 | 6/1952 | F.335 | 7/1958 | L.Thiện | |
24 | Lương Văn Phú | 1927 | 9/1954 | D.325 | 9/1959 | T.Thành | |
25 | NguyễnNgọcTưởng | 1924 | 2/1949 | E.57 | 6/1956 | N.sơn | |
26 | Thiều Đình Kịch | 1931 | 8/1952 | D.305 | 7/1957 | T.Thành | |
27 | Nguyễn Hữu Bính | 1929 | 8/1952 | D.305 | 7/1957 | T.Thành | |
28 | Chu Văn Bàn | 1926 | 4/1948 | F.335 | 9/ 1958 | T.Thành | |
29 | La Xuân Minh | 1933 | 6/1953 | E.359 | 2/1959 | L. Thiện | |
30 | Trần Hợp Khải | 1934 | 10/1953 | F.308 | 10/1957 | N.Sơn | |
31 | Trần Hợp Đạt | 1927 | 2/1949 | E.57 | 6/1956 | N.sơn | |
32 | Hoàng Viết Dốc | 1930 | 9/1952 | F.325 | 5/1958 | L.Thịnh | |
33 | Nguyễn Hữu Bính | 1929 | 6/1952 | F.335 | 7/1958 | L.Thịnh | |
34 | Lò Xuân Tranh | 1930 | 4/1948 | D.118 | 8/1950 | L.Thịnh | |
(1) | (2) | (3) | (4) | (5) | (6) | (7) | (8) |
35 | HuỳnhThanhQuảng | 1926 | 4/1948 | F.335 | 9/ 1958 | N.Sơn | |
36 | Lương Văn Thanh | 1923 | 9/1954 | D.325 | 9/1959 | T.Thành | |
37 | Lương Xuân Như | 1911 | 4/1948 | D.118 | 8/1950 | L.Thịnh | (L.sỹ) |
38 | Lê Đình Vát | 1927 | 5/1949 | N.Sơn | (L.sỹ) | ||
39 | Hà Văn Thọ | 1920 | 4/1948 | N./Thượng | (L.sỹ) |
b. Những đóng góp về kinh tế: Khôngcó ai rõ và cũng không có sách để lại.
4.2. Từ Năm 1954 đến 1975:
+ Số Lượng dân công hoả tuyến:
1.
2.
3.
4.
5.
+ Thanh niên xung phong:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.Bà: Vũ Thị Nhắn Thôn Trung Thành.
11.Bà: Hoàng Thị Thảnh Thôn Minh Quang.
12.Bà: Nguyễn Thị Hảo Thôn Ming Quang.
13. Bà: Hà Thị Hồng Thôn Minh Ngọc.
14. Bà: Lương Thị Thanh Thôn Minh Ngọc.
ỦY BAN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ
XÃ LƯƠNG SƠN HUYỆN THƯỜNG XUÂN
I ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN HÀNH CHÍNH.
1.1/ Địa giới xã:
1 | Đập Hón dường | Ngọc Thượng | 1985 | 2,0 km | 27 ha | ||
2 | Đập Trác trong | Ngọc Thượng | 1976 | 1,5 km | 15 ha | ||
3 | Đập Hón khiếng | Lương Thịnh | 1975 | 1km | 2,0 km | 15 ha | |
4 | Đập Hón ón | Lương Thịnh | 1888 | 2,2 km | 30 ha | ||
5 | Đập Na Mó | Ngọc Sơn | 1995 | 1km | 2,5 km | 35 ha | |
6 | Đập Đông Thành | Ngọc Sơn | 1986 | 1,5 km | 20 ha | ||
7 | Đập Hón Mùn | Trung Thành | 1984 | 1km | 2,0 km | 42 ha | |
8 | Đập 21 | Trung Thành | 1980 | 2,5 km | 34 ha | ||
9 | Đập Hón Sán | Lương Thiện | 2004 | 0,5km | 3,0 km | 47 ha | |
10 | Đập Hồ Sen | Lương Thiện | 1982 | 1,0 km | 16 ha | ||
11 | Đập Pa Lai | Minh Quang | 1979 | 2 km | 1,5 km | 37 ha | |
12 | Đập cây Thị | Minh Ngọc | 1978 | 2,0 km | 18 ha | ||
13 | Đập Hua Na | Minh Ngọc | 1,0 km | 14 ha | |||
14 | Đập Tá Lấc | Minh Ngọc | 1985 | 1,5 km | 15 ha | ||
Tổng | 7 Thôn | 5,5km | 26,2km | 365 ha |
1) Thôn Ngọc Thượng: 7,2 ha
2) Thôn Lương Thịnh: 11,2 ha
3) Thôn Ngọc Sơn: 15,6 ha
4) Thôn Lương Thiện: 14 ha
5) Thôn Trung Thành: 16 ha
6) Thôn Minh Quang: 8 ha
7) Thôn Minh Ngọc: 5,2 ha
- Các loại vườn trại, đồi núi:
1) Thôn Ngọc Thượng: 72,8ha
2) Thôn Lương Thịnh: 79,8 ha
3) Thôn Ngọc Sơn: 114,4ha
4) Thôn Lương Thiện: 106 ha
5) Thôn Trung Thành: 157 ha
6) Thôn Minh Quang: 82 ha
7) Thôn Minh Ngọc: 54,89 ha
- Đất sản xuất nông nghiệp hiện nay: Toàn xã tổng: 7130,02 ha
- Đất sản xuất Lâm nghiệp hiện nay: Toàn xã tổng: 6208,34 ha
Năm | CÂY LÚA | CÂY NGÔ | CÂY KHOAI LANG | CÂY SẮN | ||||
DIỆN TÍCH (HA) | SẢN LƯỢNG (TẤN) | DIỆN TÍCH (HA) | SẢN LƯỢNG (TẤN) | DIỆN TÍCH (HA) | SẢN LƯỢNG (TẤN) | DIỆN TÍCH (HA) | SẢN LƯỢNG (TẤN) | |
1995 | 201 | 1913/2Vụ | 50 | 150 | 38 | 152 | 95 | 3800 |
1996 | 201 | 1956/2Vụ | 50 | 153 | 39 | 158 | 91 | 3900 |
1997 | 201 | 1965/2Vụ | 52 | 156 | 40 | 162 | 92 | 4000 |
1998 | 201 | 1987/2Vụ | 53 | 159 | 42 | 168 | 95 | 3764 |
1999 | 201 | 1962/2Vụ | 52 | 157 | 41 | 164 | 93 | 3890 |
2000 | 201 | 2000/2Vụ | 50 | 160 | 41 | 163 | 95 | 3879 |
2001 | 201 | 1976/2Vụ | 50 | 152 | 43 | 169 | 97 | 3864 |
2002 | 201 | 1954/2Vụ | 53 | 164 | 39 | 157 | 95 | 3954 |
2003 | 201 | 1986/2Vụ | 52 | 162 | 38 | 158 | 93 | 3987 |
2004 | 201 | 1998/2Vụ | 52 | 163 | 38 | 153 | 94 | 3678 |
2005 | 201 | 2000/2Vụ | 53 | 168 | 38 | 154 | 96 | 4015 |
-
+ Giống lúa: Q5;838; Nhi ưu 63; X21;Tin iu
+ Giống ngô: 999,
-
+ Cây mía: 421, 33 ha. Hàng năm đạt từ 25260 đến 28000 tấn mía/năm
+ Cây ăn quả: 71 ha.
-
Năm | TRÂU BÒ | LỢN | GIA CẦM | |||
TỔNG ĐÀN (CON) | SẢN LƯỢNG XUẤT CHUỒNG (TẤN/NĂM) | TỔNG ĐÀN (CON) | SẢN LƯỢNG XUẤT CHUỒNG (KG/NĂM) | TỔNG ĐÀN (CON) | SẢN LƯỢNG XUẤT CHUỒNG (KG) | |
1995 | 1324 | 25 | 3768 | 302463 | 13456 | 20184 |
1996 | 1301 | 24 | 3482 | 297867 | 14165 | 21456 |
1997 | 1298 | 22 | 3486 | 289566 | 14562 | 21356 |
1998 | 1296 | 21 | 3490 | 301245 | 13654 | 20156 |
1999 | 1292 | 20 | 3520 | 291282 | 13587 | 20423 |
2000 | 1289 | 19 | 3585 | 267893 | 15362 | 22135 |
2001 | 1287 | 18 | 3579 | 289643 | 14865 | 21546 |
2002 | 1276 | 19 | 3540 | 291235 | 11369 | 18863 |
2003 | 1273 | 18 | 3569 | 289678 | 12458 | 19684 |
2004 | 1264 | 17 | 3568 | 297626 | 11256 | 18364 |
2005 | 1235 | 19 | 3640 | 291200 | 10290 | 17624 |
II.3. Công nghiệp.
-
+ Thời gian xây dựng: năm 2002.
+ Diện tích 3 ha
+ Quy mô sản xuất nhỏ
+ Số lượng công nhân: 60 công nhân
II. 4.. Tiẻu thủ công nghiệp. địa phương không có.
II.5. Công nghiệp khai khoang sản.
-
+ Mỏ Crom mit: Đã được khai thác từ năm 1992 đến nay với hình thức nhỏ lẻ chưa tập chung, chỉ là cá nhân khai thác đem đi bán.
+ Mỏ đồng: Khai thác từ thời Pháp thuộc, với hình thức nhỏ lẻ.
+ Đất Cao lanh: Đã được khai thác từ năm 1999 đến nay do các công ty sán xuất gạch ốp lát đến khai thác. Trữ lượng ít khoảng vài chục ha, lộ thiên, độ sâu không 100m.
* Hình thức khai thác: Chỉ dùng máy múc và vận chuyển bằng ô tô.
- Còn có mỏ thiếc chưa được khai thác.
II.6. Lâm nghiệp.
-
-
+ Diện tích khoanh nuôi: 524,4 ha
+ Diện tích trồng rừng 5 năm: 303,5 ha
+ Diện tích rừng sản xuất: 138 ha
+ Diện tích cây ăn quả: 71,6 ha
+ Diện tích trồng rừng bổ sung năm nay là 28,2 ha
II.7. Ngư nghiệp.
-
-
+ Chủ yếu là các loại cá như: Cá Trăm, cá chép, cá mè, cá rô phi,
+ Dịch vụ chế biến thuỷ sản: Không có.
-
-
II.8. Thương nghiệp.
a. Trước cách mạng tháng 8, năm 1945.
-
-
b. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay.
-
+ Chợ Lương sơn được thành lập từ 4 tháng 3 năm 1979. Họp các ngày chính trong tháng đó là phiên ngày 04 - 09 - 14 - 19 - 24 - 29 (Âm lịch) Nằm ngay tại ngã 3 xã lương sơn, thuộc địa phận thôn Trung Thành, Nằm giáp với trục đường 507 là đường tỉnh lộ, là trung tâm giao lưu giữa xã và các xã bạn.Vị trí rất thuận lợi cho việc buôn bán củng là nơi trung tâm văn hoá kinh tế chính trị của xã.
+ Chợ Lương Thịnh: Được thành lập từ năm 1993. Họp các ngày chính trong tháng đó là phiên ngày 03 - 07 - 13 - 17 - 23 - 27 (Âm lịch) nằm trung tâm Thôn Lương thịnh. Trên trục đường liên huyện đi Lang Chánh., cách trung tâm xã 2,5 km . Chợ họp được có 1 năm do dân cư thưa thớt chợ bỏ dần không có người họp nên đã huỷ bỏ họp chợ trên .
-
+ Cung ứng dịch vụ ngày đó chủ yếu chỉ là bán dầu hoả (Tức dầu thắp đèn) muối, hàng phân phối. không đủ hàng cho người tiêu dùng.
+ Đến năm 1991 cửa hàng mua bán không còn bị giải thể do buôn bán không có hiệu quả.
+ Khi cửa hàng giải thể thì nhiều đại lý tư nhân buôn bán hàng hoá xuất hiện lúa đó hàng hoá ngày một đa dạng phong phú đáp ứng đủ nhu cầu phục vụ nhân dân.
-
Ông: Trần hợp Dũng Chủ nhiệm
Ông: Lê Dăng Lịch PCN
Ông: Lang Văn Mắn PCN
Bà: Trần thị Thu Kế toán
Ông: Phạm Văn Cao Thủ quỹ
-
-
II.9. Những tác động của tự nhiên.
- Các trận đại dịch bệnh:
Không có đại dịch sảy ra lớn. Chỉ sảy ra dịch sốt sốt rét kéo dài từ năm 1986 đến 1996. Nguyên nhân chủ yếu là do muỗi Ano phen mang ký sinh trùng sốt rét gây bệnh. Qua mười năm hoành hành đã cướp đi hơn 50 người trên toàn xã. Được sự quan tâm của Đảng uỷ, chính quyền các cấp, đăc biệt là ngành y tế Thanh hoá, trung tâm y tế Thường Xuân, đội phòng dịch huyện đã phối kết hợp với nhân dân địa phương đến năm 1996 đã bài trừ được dịch sốt rét. Từ khi có dự án lòng hồ Cửa Đặt năm 2004 hơn 100 hộ về Lương Sơn sinh sống, nên bệnh sốt rét lại đang phát triển. Nguyên nhân do các hộ ở vùng sốt sốt rét còn mang ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể chưa khỏi nên về xã lại bị sốt sốt rét.
- Các trận bão lũ lớn.
Các trận bảo lũ lớn đều ảnh hưởng cùng chung với tỉnh. Riêng chỉ có Ngày16 h 9/4 năm 1993 (Âm lịch) có một trận lốc xoáy sảy ra trên địa bàn xã Lương sơn. Cơn lốc xoáy với cường độ mạnh kèm theo mưa đá cụ thể đã gây thiệt hại cho xã là: Hơn 200 nóc nhà đã bị bê ra chỗ khác và sập đổ hoàn toàn. Hơn 200 ha lúa bị hỏng. Rất may không có ai bị chết chỉ có bị thương 4 người.Tổng thiệt hại ước tính gần một tỉ đồng năm.
- Nạn đói: Cùng chung với cả nước trên địa bàn xã chỉ sảy ra nạn đói năm 1945 (ất dậu).
II.10. Các đặc sản của địa phương.
Ơ
II.11. Các phong trào thi đua trên lĩnh vực kinh tế.
- Tuần lễ vàng (Sau năm 1945)
+ Trong xã năm đó không có ai ủng hộ
+ Phong trào hũ gạo tiết kiệm . Hưởng ứng phong trào hũ gạo tiết kiệm cũng đã tiết kiệm được hàng tấn gạo gửi ra tiền tuyến.
+ Phong trào bình dân học vụ. Lúc đó mọi người xuống chợ huyện phải biết đọc chữ cái mới được vào chợ. Chính vì thế mà nhiều người cũng đã biết chữ.
- Phong trào trồng cây gây rừng . Năm 1960 Hưởng ứng phong trào trồng cây gây rừng xã đã trồng được hết cây bên vệ đường, và một số đất đồi núi chọc.
III. CHÍNH TRỊ - VĂN HOÁ XÃ HỘI - GIÁO DỤC - Y TẾ.
a. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945.
+ Số dòng họ lớn ở địa phương:
*Gồm có dòng họ Lang, Họ Lương, Họ Vi, Họ Hà.
b. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945
- Tổ chức chính quyền:
+ Từ khi tách thành xã Lương sơn năm 1960 đến nay. Lúc đó là Uỷ ban hành chính xã Lương sơn.
* Người được bầu làm chủ tịch UBHC xã Lương sơn đầu tiên là ông............. từ năm 1960 -
* Tiếp đó đến ông:
Năm 1963 - 1965 Là Ông Vi Văn Khun
Năm 1965 - 1967 Là Ông Phạm Văn Hạnh
Năm 1967 - 1968 Là Ông Lương Xuân Phúc
Năm 1968 - 1970 Là Ông Hà Văn Tuyền
Năm 1971 - 1974 Là Ông Hà Văn Tuyền
Năm 1974 - 1976 Là Ông Lương Phi Thiên
Năm 1976 - 1978 Là Ông Vi Văn Mao.
Năm 1978 - 1982 Là Ông Hà Văn Nhân
Năm 1982 - 1986 Là Ông Trần Hợp Nhung.
Năm 1986 - 1989 Là Ông Cao Hồng Thái
Năm 1989 - 1994 Là Ông Lê Ngọc Bích
Năm 1994 - 2004 Là ông Lương Xuân Thìn
Năm 2004 - 2009 Là Ông Trần Hợp Bảng
* Phó chủ tịch UBND là các ông:
Năm 1965 - 1967 Là Ông Lương Xuân Phúc
Năm 1967 - 1968 Là Ông Lương Phi Thiên
Năm 1968 - 1970 Là Ông Lương Phi Thiên
Năm 1971 - 1974 Là Ông Phạm Văn Thái
Năm 1974 - 1976 Là Ông Vi Văn Mao
Năm 1976 - 1978 Là Ông Hà Văn Thái
Năm 1978 - 1982 Là Ông Nguyễn Hữu Bản
Năm 1982 - 1986 Là Ông Nuyễn Hữu Bản
Năm 1986 - 1989 Là Ông Lương Xuân Thìn
Năm 1989 - 1994 Là Ông Tạ Hồng Hà
Năm 1994 - 2004 Là ông Nguyễn Hữu Thuận
Năm 2004 - 2009 Là Ông Lương Xuân Thiêm Và Ông Lê Hữu Khánh
Bí Thư Đảng uỷ Xã Lương sơn qua các thời kỳ:
Trước năm 1960 Xã Lương sơn chỉ có chỉ có 2 đồng chí Đảng viên, sinh hoạt cùng chi bộ Ngọc phụng Xã Lương Ngọc cũ thuộc huyện Ngọc Lặc. Đến năm 1963, mới có chi bộ . Lúc đó ông Vi Văn Khun là bí thư chi bộ cho mãi đến năm 1968 mới có quyết định được tách thành Đảng bộ xã Lương sơn trước đây là cùng với Đảng bộ Ngọc Phụng. Lúc đó ông Lương Xuân Phúc là Bí thư Đảng uỷ đầu tiên cho đến 1974 .Tiếp đó là các ông:
Năm 1974 - 1976 Là Ông Phạm Tăng Cường
Năm 1976 - 1978 Là Ông Phạm Văn Thái
Năm 1978 - 1982 Là Ông Trần Hợp Nhung
Năm 1982 - 1986 Là Ông Hà Văn Thái
Năm 1986 - 1989 Là Ông Lê Ngọc Bích
Năm 1989 - 1994 Là Ông Lương Xuân Thìn
Năm 1994 - 2004 Là ông Trần Văn Quý
Năm 2004 - 2009 Là Ông Lê Xuân Lâm
* Thường vụ trực Đảng qua các thời kỳ:
Năm 1968 - 1977 là ông Lê Hữu Hợi
Năm 1977 - 1987 là ông Nguyễn Hữu Bản
Năm 1987 - 1990 là ông Lê Đức Thuận.
Năm 1990 - 1995 là ông Lê Đình Thắm
Năm 1995 - 1999 là ông Lương Văn Trọng
Năm 1999 - 2005 là ông Lê Xuân Lâm.
Năm 2005 - 2010 là ông Phạm Văn Thắng.
* Làm Công tác mặt trân qua các thời kỳ:(Năm 1968 - 1987 Trực Đảng kiêm công tác Mặt trận)
Năm 1968 - 1974 là ông Lê Đình Thiệng
Năm 1974 - 1977 là ông Lê Hữu Hợi
Năm 1977 - 1987 là ông Nguyễn Hữu Bản
Năm 1987 - 1990 là ông Lê Văn Gióng - Chủ tịchMTTQ xã Lương sơn
Năm 1990 - 1995 Là ông Lô Văn Mão - Chủ tịchMTTQ xã Lương sơn
Năm 1995 - 2002 là ông Lê Hữu Mùi - Chủ tịchMTTQ xã Lương sơn
Năm 2001 - 2003 là ông Nguyễn Hữu Thảng- Chủ tịchMTTQ xã Lương sơn
Năm 2003 - 2008 là Ông Nguyễn Hữu Thảng- Chủ tịchMTTQ xã Lương sơn.
* Chủ Tịch Hội Phụ nữ xã qua các thời kỳ:
Năm 1969 - 1979 là bà Nguyễn Thị Quy
Năm 1979 - 1984 là Bà Lang Thị Phong
Năm 1884 - 1997 là bà Nguyễn Thị Xâm
Năm 1997 - 2001 là Bà Lê Thị Hải
Năm 2001 - 2006 là bà Lê Thị Hải
* Chủ tịch hội nông dân qua các thời kỳ
Năm 1977 - 1981 là ông Vi Văn Tiến. - Hội trưởng hội nông hội
Năm 1981 - 1991 là ông Nguyễn Văn Chuyên - Hội trưởng hội nông hội
Năm 1991 - 1998 là ông Lê Đình Tỵ - Chủ tich Hội Nông dân.
Năm 1998 - 2001 là Ông Nguyễn Hữu Thảng - Chủ tich Hội Nông dân
Năm 2001- 2002 là ông Nguyễn Hữu Thành- Chủ tich Hội Nông dân
Năm 2002 - 2006 là ông Lê Doãn Cừ. - Chủ tich Hội Nông dân
* Bí Thư Đoàn xã qua các thời kỳ:
Năm 1960 - 1964 là ông Hà Văn Toán
Năm 1964 - 1968 là ông Lê Xuân Thiết.
Năm 1968 - 1978 là ông Lê Đình Thọ
Năm 1978 - 1882 là ông Vi Hồng Inh
Năm 1982 - 1987 là ông Lê Đức Thuận
Năm 1987 - 1994 là Ông Lê Văn Nhỡ
Năm 1994 - 1999 là Ông Trần Công Hiệp
Năm 1999 - 2001 là Ông Lê Văn Ánh
Năm 2001 - 2006 là Ông Lê Đình Sự.
* Chủ Tịch Hội Cựu chiến binh qua các thời kỳ
Năm 1993 Ông Vi Quyết Thắng là chủ tịch lâm thời
Năm 1994 - 1997 ông Nguyễn Quốc Nga là chủ tịch hội cựu chiến binh
Năm 1997 - 2002 ông Hà Văn Phương là chủ tịch Hội cựu chiến binh.
Năm 2002 - 2006 ông Hoàng Xuân Hùng là chủ tịch Hội cựu chiến binh.
3.2 Văn hoá xã hội.
- Các ngày lễ, tết, của làng xã.
+ Các ngày lễ: Riêng trong làng xã không có, chỉ theo các ngày lễ nhà nước quy định .
Đó là các ngày 3 tháng 2 Ngày Thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng uỷ thường phát động các phong trào lập thành tích xuất sắc, Mừng Đảng mừng xuân.
Ngày 27 tháng 2 ( ngày thày thuốc việt nam) Đảng uỷ - HĐND UBND thường đến chúc mừng các lương y, những người làm công tác y tế.
Ngày 8 tháng 3 Ngày Quốc tế phụ nữ. Hội phụ nữ xã thường tổ chức toạ đàm, phổ biến rộng rãi tới mọi chị em, vui chơi ca hát mừng ngày quốc tế phụ nữ,
Ngày 26 tháng 3 Ngày Thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ chí Minh. Đoàn xã thường tổ chức các phong trào văn hoá văn nghệ, chào mừng ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
Ngày 30 tháng 4 ngày giải phóng miền Nam, ngày 1 tháng 5, ngày quốc tế lao động. Hội cựu chiến binh thường tổ chức các phong trào thể dục thể thao như cầu lông, bóng chuyền, bóng đá để chào mừng ngày miền Nam hoàn toàn được giải phóng.
Ngày 19 tháng 5 (Ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh) xã thường phát động các phong trào thi đua lập thành tích chào mừng ngày sinh nhật Bác.
Ngày 1tháng 6 ngày quốc tế thiếu nhi. Đảng uỷ - HĐND - UBND - UBMTTQ, Ban giám hiệu các trường thường tổ chức trao phần thưởng động viên các cháu chăm ngoan học giỏi có thành tích trong học tập và các kỳ thi học sinh giỏi.
Ngày 27 tháng 7 (Ngày Thương binh liệt sỹ) Đảng uỷ - HĐND - UBND thường tổ chức lễ kỷ niệm để tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trao quà cho tất cả: bà mẹ việt nam anh hùng, các đồng chí Thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng. Thường xuyên chăm lo giúp đỡ các gia đình chính sách thực hiện đúng lời dạy của Bác "Uống nước nhớ nguồn".
Ngày 19 tháng 8 và quốc khánh 2 tháng 9. Đoàn thanh niên thường tổ chức cho các cháu thiếu niên cắm trại, Ban văn hoá thường có kế hoạch cho các chi đoàn giao hữu bóng đá, bóng chuyền. Với tinh thần "Cách mạng tháng 8 và quốc khánh 2 - 9 bất diệt"
Ngày 20 tháng 10 ngày phụ nữ Việt nam Hội phụ nữ xã thường tổ chức toạ đàm, phổ biến rộng rãi tới mọi chị em, vui chơi ca hát mừng ngày phụ nữ việt nam.
Ngày 20 tháng 11 (Ngày nhà giáo việt nam). Các trường trong xã thường hoạt đọng các phong trào văn hoá văn nghệ chào mừng ngày nhà giáo việt Nam. Đảng uỷ - HĐND - UBND - UBMTTQ tổ chức mít tinh kỷ niệm chúc mừng ngày nhà giáo việt nam.
Ngày 22 tháng 12 (ngày thành lập quân đội nhân dân việt nam). Xã thường tổ chức kỷ nệm ngày thành lập quân đội nhân dân việt nam. Ban văn hoá kết hợp với Hội cựu chiến binh, xã đội, Đoàn thanh niên tổ chức cho các đơn vị trong xã thi các môn như: Bóng đá, bóng chuyền, cầu lông , cờ tướng, cờ vua, bắn nõ, hội diễn văn nghệ quần chúng vv... và tổng kết các phong trào văn hoá văn nghệ thể dục thể thao trong năm.
+ Các ngày tết trong năm :
Tết đương lịch vào ngày 1 tháng 1 dương lịch, tết âm lịch vào các ngày 30 tháng 12 ngày cuối năm, và ngày 1,2,3 tháng 1 âm lịch (còn gọi là Tết nguyên đán).
Tết Thanh Minh(Còn gọi là tết nguyên tiêu) theo tục lệ của các làng, thì không đi tảo mộ chỉ tảo mộ vào ngày 30 tháng 12 (âm lịch hàng năm). Mà lại ăn tết vào 3 tháng 3 (âm lịch).
Ngày 5 tháng 5 âm lịch cũng ăn tết (Còn gọi là tết Đoan Ngọ).
Ngày 15 tháng 7 âm lịch(Ngày xoá tội vong nhân) theo tục lệ của làng thường hay đốt áo cho người chết.
Tết trung thu vào 15 tháng 8 (âm lịch) tết này thường hay tổ chức cho các cháu thiếu niên nhi đồng chơi các trò chơi.
- Các điều kiêng kỵ của làng xã:
+ Có những cái chung trong 2 dân tộc Mường và Thái cùng chung sống trên địa bàn xã. Khi bố, mẹ, ông, bà nội ngoại không may qua đời thì con trai hoặc con gái đến tuổi thành hôn mà muốn kết hôn thì phải được giỗ đầu tức sau 1 năm thì mới được cưới xin. Nhưng người kinh sống cùng trong xã thì khác Khi bố, mẹ, ông, bà nội ngoại không may qua đời thì con trai hoặc con gái đến tuổi thành hôn mà muốn kết hôn thì phải hết việc tức sau 3 năm thì mới được cưới xin. Nếu người nào mà không giữ được việc đó thì thường người ta cho rằng là có cưới xin thì về cũng không hay thuận vợ thuận chồng làm ăn thường không hay khá giả, hay ốm đau. Người Thái và người Mường khi đang chịu tang ông bà, bố, mẹ chỉ sau 1 tuần là có thể đến các đám cưới được . Người kinh khi đang chịu tang ông bà, bố, mẹ thường là sau 100 ngày thì mới đến các đám cưới. Ngày tết nguyên đán vào sáng mùng 1 cả 3 dân tộc ta người ta kiêng không quét nhà. Hoặc phải chọn người đến xông nhà.
Khi sinh con Người kinh thường hay kiêng sau 3 tháng mới đi làm . Nhưng người Thái khi sinh con (họ uống thuốc lá rừng) thường chỉ sau 10 ngày là họ đã đi làm rất ít trường hợp kiêng được như người kinh, kể các việc ăn uống, người Thái chỉ kiêng ăn lươn, trạch khi sinh còn những thứ khác họ vẫn ăn uống bình thường.
- Lệ làng, lệ bản, lệ Mường: Những tục lệ của người Thái, người Mường trước đây rất lạc hậu, mê tín. Thường như ốm đau hay cúng, bái, cầm vía , mời thầy cúng cầu mong cho bệnh được chóng khỏi. Người chết thường để trong nhà làm ma 3 ngày. Đám cưới thường tổ chức linh đình ăn uống cả tuần, thách cưới rất cao Từ năm 1975 tới nay thì các cấp uỷ Đảng chính quyền đã cấm những hủ tục quá lạc hậu này. Ngày nay thực hiện nếp sống văn hoá đặc biệt là từ khi khai trương làng, cơ quan văn hoá trong xã đến nay. Các hủ tục lạc hậu đã xoá bỏ được. Người chết không được để làm ma quá 24 giờ.Người mang bệnh truyền nhiễm không để quá 12 giờ. ốm đau phải đem đến trạm xá, bệnh viện, đến các thầy thuuốc để chữa bệnh tuyệt đối không được mời thầy cúng. Tổ chức cưới xin đơn giản theo nếp sống mới, không thách cưới, không ăn uống linh đình tổ chức lâu ngày, không thức, vui chơi, quá 22 giờ.
- Khoán ước, hương ước : Từ khi khai trương làng ,cơ quan văn hoá đến nay chỉ có 3 làng có hương ước 2 cơ quan có quy ước . Đều quy định theo luật
- Các gia phả : Không có
- Sắc phong : Không
- Câu đối:không
- Văn bia (văn bản viết, bản chữ hán, bản dịch): Không
- Các di tích lịch sử văn hoá - Danh thắng : Không
+ Đình : Không
+ Đền : Không
+ Nghè: Không
+ Miếu: Không
+ Am: Không
+ Điện: Không
+ Văn chỉ: Không
3.3. Giáo dục.
a. Trước cách mạng tháng 8năm 1945
- Số người biết chữ nho trong làng là khoảng hơn 20 người nhưng đã chết từ lâu.
- Số người biết chữ Thái: Nghe kể lại rằng chỉ vài ba người biết chữ Thái nhưng đẫ chết từ lâu.
- Số người đỗ đạt khoa bảng: Không.
b. Kết quả giáo dục từ năm 1958 đến nay:
* Trường tiểu học Lương sơn 1:
Năm 1958, tại xã Lương sơn, trường phổ thông đầu tiên được thành lập (Thực ra đây là 1 phân hiệu của trường Lương Ngọc , xã Lương sơn và xã Ngọc phụng ngày nay). Thời gian này nhà trường chỉ chỉ có 1 lớp 1 với 13 học sinh do thầy La Khắc Hiệu làm hiệu trưởng. Trường đóng trên địa bàn làng Phạ thuộc Thôn Trung Thành.
Đến năm học 1961 - 1962 nhà trường có đủ học sinh toàn khối (Từ lớp 1 đến lớp 4). Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên.
Đến năm học 1966 - 1967, nhà trường đã có học sinh cấp II được học tại trường (Lớp 5 nhô) do Thầy Trần Văn Hân làm chủ nhiệm Thầy dạy cả tự nhiên và xã hội. Thầy Lê văn Bảo làm hiệu trưởng . Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên.
Đến năm học 1967 - 1968, theo chủ trương của Đảng , nhà nước và Bộ giáo dục, nhà trường đã được tách làm 2 trường đó là trường phổ thông cấp II và trường phổ thông cấp I . Trường phổ thông cấp 1 do Thầy Nguyễn Văn Châm làm hiệu trưởng đây chính là tiền thân của trường tiểu học ngày nay. Lúc này trường có 2 khu: Khu chính đặt tại lang Phạ Thôn Trung Thành. Khu lẻ đặt tại làng Trác Thôn Ngọc Thượng. Tổng số có 10 lớp 11 giáo viên với gần 300 học sinh. Trong giai đoạn chiến tranh ác liệt, giặc Mỹ ném bom giữ dội miền bắc, Trường phải sơ tán vào rẫy mùn thôn Trung Thành. Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên.
Năm 1970 - 1971, nhà trường có 12 lớp, 11 giáo viên, hơn 300 học sinh. Lúc đó do chiến tranh ác liệt, thầy giáo hiệu trưởng, Nguyễn văn Châm lên đường nhập ngũ. Cô giáo lê Thị Tuân hiệu phó nhà trường lên làm hiệu trưởng. Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên.
Cho đến năm 1977 - 1978, theo chủ trương của Bộ giáo dục về việc sát nhập các trường cấp 1 và cấp II trong cùng 1 xã thì Lương sơn đã sát nhập 2 trường làm một sau 10 năm chia tách. Trường phổ thông cơ sở Lương sơn được thành lập lúc đó Thầy Trần Quốc Nghị làm hiệu trưởng. Thời kỳ này nhà trường có 30 lớp 30 giáo viên, gần 1000 học sinh . Địa điểm vẫn nằm ở làng phạ thôn Trung Thành. Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên. Cũng năm học đó nhà trường được Ban định canh định cư đầu tư xây dựng 4 phòng học cấp 4 được đặt tại Thôn Ngọc Sơn . Năm 1979 - 1980 trường lại được đầu tư xây dựng thêm 4 phòng học cấp 4.
Năm 1980 - 1981 trường có 36 lớp cấp 1, 8 lớp cấp 2 gần 1800 học sinh 62 cán bộ giáo viên . Có 8 phòng học cấp 4 ở khu chính còn đâu là nhà tranh tre nứa lá. Đặc biệt là các khu lẻ không có nhà xây nào đều là tranh tre nứa lá.
Năm 1981 - 1992 trường liên tục có từ 1900 - 2200 học sinh cả 2 cấp có 48 lớp gần 70 cán bộ giáo viên. 2 cán bộ giáo viên 7 + 2 , 1 giáo viên 10 + 3, 8 giáo viên cao đẳng sư phạm, 3 giáo viên 9 + 3, 56 giáo viên 12 + 2 Địa điểm trung tâm trường vẫn nằm trên thôn Ngọc Sơn.
Năm 1992 - 1993 , do sự phát triển mạnh mẽ về số lượng học sinh trường phổ thông cơ sở Lương sơn được tách làm 2 trường đó là Trường phổ thông cơ sở do thầy Trần Đăng Sơn làm hiệu trưởng . Trường phổ thông cấp 1 Lương sơn II do Thầy Trịnh Thái Bình, làm hiệu trưởng.(Nay là trường TH Lương sơn 2).
Đến năm 1997 - 1998 Trường phổ thông cơ sở Lương sơn lại được tách làm 2 trường , đó là: Trường trung học cơ sở Lương Sơn do cô Lê Thi Loan làm hiệu trưởng. Trường tiểu học Lương sơn 1 do Thầy Nguyễn Quốc Hoàn làm hiệu trưởng. Lúc này trường tiểu học 36 lớp 43 cán bộ giáo viên. Có 3 giáo viên 9 + 3 ; 1 giáo viên đại học, 41 giáo viên 12 +2. Trường cấp II có 11 lớp, 355 học sinh.
Năm học 1999 - 2000 có 39 lớp, hơn 1000 học sinh, 47 cán bộ giáo viên - công nhân viên. Có 3 giáo viên 9 + 3 ; 1 giáo viên đại học; 43 giáo viên 12 + 2. Cơ sở vật chất vẫn như cũ.
Đến năm học 2004 - 2005 , được sự quan tâm của Đảng nhà nước, sự đóng góp của nhân dân địa phương nhà trường đã được đầu tư xây dựng 19 phòng học kiên cố, cao tầng của chương trình "Xoá tranh tre" và Dự án ADB tài trợ và như vậy nhà trường đã chuyển về khu trườn mới hiện nay. Trường luôn có trên 30 lớp và trên 700 học sinh gần 39 Cán bộ giáo viên - công nhân viên. Có 3 giáo viên đại học, 2 giáo viên cao đẳng, 34 giáo viên trung học.Tiếp như thế cho mãi đến năm học 2005 - 2006 vẫn duy trì như thế.
Thành tích của Trường tiểu học Lương sơn 1:
Năm học 1982 - 1983 đến năm học 1984 - 1985 . Trong 3 năm liền nhà trường được UBND tỉnh tặng khen là đơn vị "Tiên tiến xuất săc" các tổ trong nhà trường đều đạt tổ lao động XHCN. Năm học 1984 - 1985 được giải nhất toàn đoàn trong đợt hội thao giáo dục toàn huyện về phong trào giáo dục. Năm học 1997 - 1998 nhà trường đã được công nhận trường tiên tiến cấp huyện . Các năm tiếp theo nhà trường vẫn đạt được danh hiệu này. Năm học 2001 - 2002 nhà trường được công nhận là tiên tiến cấp tỉnh. Năm học 2002 - 2003 , trong hội khoẻ phù đổng cấp huyện nhà trường đã giành vị trí thứ 2 toàn đoàn. Từ năm học 1997- 1998 đến năm học 2005 - 2006 Có 16 cán bộ giáo viên, đạt danh hiệu chiến sỹ thi đua cấp huyện. 12 cán bộ giáo viên giỏi cấp tỉnh. 29 giáo viên giỏi cấp huyện, 122 học sinh giỏi cấp huyện và cấp tỉnh tỷ lệ học sinh lên lớp luôn đạt 96,7% trở lên . Được công nhận hoàn thành chương trình tiểu học là 100%. Đã đăng ký xây dựng trường chuẩn quốc gia.
*Trường trung học cơ sở Lương sơn:
Tháng 8 năm 1966, nhà trường bắt đầu có học sinh cấp II được học tại trường (Lớp 5 nhô) do Thầy Trần Văn Hân làm chủ nhiệm, thầy dạy cả tự nhiên và xã hội . Thầy Lê Văn Bảo làm hiệu trưởng. Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên.
Năm học 1967 - 1968 Cấp II có 2 lớp, đó là lớp 5 và lớp 6 tổng có 35 học sinh. Lúc đó thầy Lê Xuân Thiên dạy tự nhiên, Thầy Trần văn Hân dạy môn xã hội. Thầy Lê Văn Lưu làm hiệu trưởng. Trường được tách riêng ra cấp II.
Năm học 1968 - 1969 trường đã có 3 lớp cấp II, với 65 học sinh có 4 thầy cô giáo, do thầy Trần văn Hân làm hiệu trưởng.
Năm học 1969 - 1970 trường cấp II có 4 lớp , 95 học sinh trường vẫn đóng ở làng phạ Thôn Trung Thành. Cơ sở vật chất rất nghèo nàn trường tranh vách nứa, bàn ghế cũng luồng nứa.
Giai đoạn từ 1970 - 1977. Trường thường có 8 lớp với 245 học sinh, có 9 giáo viên Thầy Trần văn Hân làm hiệu trưởng.
Năm học 1977 - 1978, theo chủ trương của Bộ giáo dục về việc sát nhập các trường cấp 1 và cấp II trong cùng 1 xã thì Lương sơn đã sát nhập 2 trường làm một sau 10 năm chia tách. Trường phổ thông cơ sở Lương sơn được thành lập lúc đó Thầy Trần Quốc Nghị làm hiệu trưởng. Thời kỳ này nhà trường có 30 lớp 30 giáo viên, gần 1000 học sinh . Địa điểm vẫn nằm ở làng phạ thôn Trung Thành. Cơ sở vật chất trường lớp lúc bấy giờ đều là trường tranh tre nứa lá do nhân dân địa phương đóng góp làm nên. Cũng năm học đó nhà trường được Ban định canh định cư đầu tư xây dựng 4 phòng học cấp 4 được đặt tại Thôn Ngọc Sơn . Năm 1979 - 1980 trường lại được đầu tư xây dựng thêm 4 phòng học cấp 4.
Năm 1980 - 1981 trường có 36 lớp cấp 1, 8 lớp cấp 2 gần 1800 học sinh 62 cán bộ giáo viên . Có 8 phòng học cấp 4 ở khu chính còn đâu là nhà tranh tre nứa lá. Đặc biệt là các khu lẻ không có nhà xây nào đều là tranh tre nứa lá.
Năm 1981 - 1992 trường liên tục có từ 1900 - 2200 học sinh cả 2 cấp có 48 lớp gần 70 cán bộ giáo viên. Địa điểm trung tâm trường vẫn nằm trên thôn Ngọc Sơn.
Năm 1992 - 1993 , do sự phát triển mạnh mẽ về số lượng học sinh trường phổ thông cơ sở Lương sơn được tách làm 2 trường đó là Trường phổ thông cơ sở do thầy Trần Đăng Sơn làm hiệu trưởng . Trường phổ thông cấp 1 Lương sơn II do Thầy Trịnh Thái Bình, làm hiệu trưởng.(Nay là trường TH Lương sơn 2).
Năm học 1994 - 1995 số học sinh cấp II là 159 em với 5 lớp. 9 giáo viên
Năm học 1995 - 1996 số học sinh cấp II là 183 em với 6 lớp. 9 giáo viên
Năm học 1996 - 1997 có 7 lớp và 254 học sinh.11 giáo viên
Đến năm 1997 - 1998 Trường phổ thông cơ sở Lương sơn lại được tách làm 2 trường , đó là: Trường trung học cơ sở Lương Sơn do cô Lê Thi Loan làm hiệu trưởng. Trường tiểu học Lương sơn 1 do Thầy Nguyễn Quốc Hoàn làm hiệu trưởng. Lúc này trường tiểu học 36 lớp 43 cán bộ giáo viên. Trường cấp II có 11 lớp, 355 học sinh. Địa điểm này được tách ra làm 2 bên ngoài là trường trung học cơ sở Lương sơn bên trong là trường tiểu học Lương sơn 1. Về cơ sở vật chất thì trường trung học phải nhận toàn bộ tranh tre nhường 8 phòng học cấp 4 cho tiểu học Lương sơn 1.
Giai đoạn từ năm 1998 - 2001 số học sinh phát triển mạnh mẽ từ 11 lớp đã lên tới 16 lớp. 18 cán bộ giáo viên, 1 giáo viên 10 + 2 17 giáo viên có trình độ Cao đẳng sư phạm. Về cơ sở vật chất vẫn như vậy
Năm học 2001 - 2002 Trường trung học Lương sơn được chuyển vào khu địa điểm mới cũng thuộc địa phận Ngọc sơn. Cơ sở vật chất đều tranh tre nứa lá. Cô Lê Thị Loan làm hiệu trưởng với 18 lớp hơn 652 học sinh. 21 cán bộ giáo viên. Có 1 Giáo viên có trình độ Đại học, 20 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm.
Năm học 2002 - 2003 , trường có 19 lớp với 667 học sinh và 30 cán bộ giáo viên. Có 3 giáo viên có trình độ đại học , 27 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm.
Năm học 2003 - 2004 nhà trường đã có 20 lớp với 667 học sinh và 32 cán bộ giáo viên. Có 4 giáo viên có trình độ đại học 27 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm, 1 công nhân viên có trình độ trung học. Được sự quan tâm của Đảng nhà nước Trường trung học cơ sở Lương sơn được dự án CI DA CANADA tài trợ đã xây được 20 phòng học 2 tầng kiên cố. 1 nhà văn phòng với tổng vốn xây dựng 1.350.000.000đồng.
Năm học 2004 - 2005 với 20 lớp học 35 cán bộ giáo viên, Có 4 giáo viên có trình độ đại học 30 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm, 1 công nhân viên có trình độ trung học.(Có 4 giáo viên đang hàm thụ đại học). Ngày 15 tháng 8 năm 2004 nhà trường được bàn giao 20 phòng học 2 tầng và 5 gian nhà hiệu bộ với đầy đủ các điều kiện, phương tiện bàn ghế, điện thắp sáng, quạt trần. Cũng năm này nhà trường được Công Đoàn giáo dục huyện Thường Xuân xây cho 5 phòng cấp 4 nhà ở giáo viên. Đảng uỷ HĐND - UBND đã xây dựng cho trường trung học toàn bộ tường rào đường trước và cổng ra vào có cánh cửa sắt, đường ra lối vào đã được lát gạch láng xi măng.
Năm học 2005 - 2006 với 20 lớp học 35 cán bộ giáo viên, vẫn là cô Lê Thị Loan làm hiệu trưởng. Có 4 giáo viên có trình độ đại học 30 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm, 1 công nhân viên có trình độ trung học.(Có 4 giáo viên đang hàm thụ đại học). 1 Giáo viên đang học co học. Cơ sở vật chất khang trang, có tương đối đầy đủ các phương tiện dạy và học. Được dự án ADB tài trợ xây dựng tiếp 3 phòng học cấp 4A để cho học các môn phụ như: nhạc, , thí nghiệm.
Thành tích đạt được của trường:
Năm học 1969 có 15 em dự thi tốt nghiệp đã đậu 14 em. cũng năm này có 4 em đậu vào trường 7 + 3 và 7 + 2.
Năm 1970 - 1971. Trường đạt tiên tiến cấp huyện, Công Đoàn xuất sắc của ngành giáo dục.
Năm học 1982 - 1983 đến năm học 1984 - 1985 . Trong 3 năm liền nhà trường được UBND tỉnh tặng khen là đơn vị "Tiên tiến xuất săc" các tổ trong nhà trường đều đạt tổ lao động XHCN. Năm học 1984 - 1985 được giải nhất toàn đoàn trong đợt hội thao giáo dục toàn huyện về phong trào giáo dục.
Năm học 1997 - 1998 có 2 học sinh là học sinh giỏi tuyến huyện. tỷ lệ học sinh thi đậu tốt nghiệp lớp 9 là 92,5%.
Năm học 2001 - 2002 có 3 em học sinh giỏi cấp huyện. 95 em học sinh lớp 9 dự thi tốt nghiệp đạt 98%.
Năm học 2002 - 2003 Có 5 em học sinh giỏi cấp huyện 1 học sinh giỏi cấp tỉnh.. Học sinh lớp 9 đật tốt nghiệp đạt 92%.
Năm học 2003 - 2004. Có 5 học sinh giỏi cấp huyện , 4 đồng chí giáo viên dạy giỏi cấp huyện. Tỷ lệ học sinh dự thi tốt nghiệp lớp 9 là 92,3%.
Năm học 2004 - 2005. Có 4 giáo viên có giờ dạy giỏi tuyến huyện, 1 giáo viên có giờ dạy giỏi tỉnh. 1 chiến sỹ thi đua. Công Đoan nhà trường 2 năm liền đạt xuất sắc của liên đoàn huyện. Trường đạt danh hiệu tiên tiến cấp huyện. Có 11 học sinh giỏi cấp huyện ở các môn, có 2 em học sinh giỏi năng khứu cấp tỉnh về năng khứu. lớp 9 thi tốt nghiệp đạt 99, 3%. Trường đã hoàn thành phổ cập trung học.
*Trường tiểu học Lương sơn II
Năm 1992 - 1993 , do sự phát triển mạnh mẽ về số lượng học sinh trường phổ thông cơ sở Lương sơn được tách làm 2 trường đó là Trường phổ thông cơ sở do thầy Trần Đăng Sơn làm hiệu trưởng . Trường phổ thông cấp 1 Lương sơn II do Thầy Trịnh Thái Bình, làm hiệu trưởng.(Nay là trường TH Lương sơn 2). Gồm có học sinh 2 thôn đó là thôn Lương Thịnh và Thôn Ngọc Thượng. Trường chính được đặt tai trung tâm thôn Lương Thịnh. khu lẻ đặt tai làng Trác Thôn Ngọc Thượng. Trường liên có từ 8 đến 10 lớp, 230 - 275 học sinh với 13 cán bộ giáo viên. Trình độ đào tạo có 1 thầy Trình độ cao học. 2 thày trình độ đại học. 10 giáo viên trung học .
- Số học sinh giỏi cấp quốc gia qua các năm: Không
- Số trường đạt chuẩn quốc gia : Không.
34. Y tế:
a. Công tác phát triển y tế từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay:
- Tram y tế xã có 1 trâm y tế, được thành lập tháng 6 năm 1958
- Tổng số cán bộ: 3 ;
- Trình độ đào tạo : Sơ học.
- Giường bệnh: Có 2 giường.
- Ông Lương Phú Xuân làm trưởng trạm.
* Đến năm 1966 , trạm y tế do ông Vi Quyết Chiến; y sỹ làm trưởng trạm.
- Có 4 cán bộ 1 y sỹ và 3 y tá sơ học; 3 giường bệnh.
* Từ năm 1975 - 1980 . Trạm y tế có 4 cán bộ do ông Lê văn Dong Y sỹ làm trưởng trạm. 3 cán bộ sơ học. 4 giường bệnh.
*Từ năm 1981 - 1987. Trạm y tế có 3 cán bộ do ông Vi Quyết Chiến Y sỹ làm trưởng trạm , 2 cán bộ sơ học, 4 giường bệnh.
* Từ năm 1987 - 2006 trạm y tế có 7 cán bộ , 6 giường bệnh, do bà Tạ Thị Thành làm trạm trưởng.
b. Thành tích đạt được trong những năm qua:
- Được sở y tế tỉnh Thanh hoá khen.
- Đạt chuẩn quốc gia về y tế năm 2005.
- Có vườn thuốc đông y với 60 cây thuốc các loại chữa các bệnh thông thường tại trạm y tế.
IV ĐẤU TRANH CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM TỪ XƯA ĐẾN NAY.
Không có sử sách nào, ghi lại các cuộc đấu tranh, chống giặc ngoại xâm, từ trước cách mạng tháng 8 năm 1945 về trước, và các cụ cao niên trong làng, xã, cũng không rõ đối với xã Lương sơn .
4.1. Trong kháng chiến chống Pháp:
a) Những đóng góp về người:
-
1.
2.
3.
-
TT | HỌ VÀ TÊN | NĂM SINH | NHẬP NGŨ | ĐƠN VỊ NHẬP NGŨ | XUẤT NGŨ | CƯ TRÚ | GHI CHÚ |
(1) | (2) | (3) | (4) | (5) | (6) | (7) | (8) |
1 | Lương Văn Liên | 1931 | 4/1948 | D.118 | 8/1950 | L. Thiện | |
2 | LươngXuân Sang | 1933 | 6/1953 | E.359 | 2/1959 | L. Thiện | |
3 | Lang Văn Toan | 1926 | 3/1948 | D.118 | 8/1951 | M.Ngoc | |
4 | Đỗ Văn Khuê | 1928 | 3/1951 | D.304 | 3/1959 | N. Sơn | |
5 | Vi Văn Hắng | 1924 | 9/1946 | D118 | 5/1954 | L. Thiện | |
6 | Nguyễn viết Hợi | 1934 | 8/1952 | D.305 | 7/1957 | T.Thành | |
7 | Trần Hợp Ngãi | 1934 | 10/1953 | F.308 | 10/1957 | N.Sơn | |
8 | Lê Đình Tỵ | 1927 | 9/1949 | F.325 | 5/1955 | M.Quang | |
10 | Lê Xuân Lương | 1923 | 2/1949 | E.57 | 6/1956 | N.sơn | |
11 | Nguyễn Hữu ỷ | 1926 | 2/1949 | 2/1949 | 9/1958 | N.Sơn | |
12 | Trịnh Huy Văn | 1920 | 4/1947 | E.57 | 8/1956 | M.Quang | |
13 | Trương Đình Sáu | 1929 | 6/1952 | F.335 | 7/1958 | L.Thiện | |
14 | Hà Đình Ty | 1921 | 6/1950 | E.44 | 5/1954 | L.Thiện | |
15 | Đỗ Xuân Khoán | 1918 | 5/1951 | C.140 | 2/1955 | M.Quang | |
16 | Lê Xuân Sừ | 1926 | 4/1947 | F.308 | 6/1950 | T.Thành | |
17 | Lò Xuân Quy | 1923 | 4/1948 | D.118 | 8/1950 | T. Thành | |
18 | Phạm Văn Bằng | 1923 | 9/1954 | D.325 | 9/1959 | T.Thành | |
19 | PhạmTăngCường | 1930 | 3/1948 | D.118 | 8/1951 | L.Thịnh | |
20 | Vi Minh Tiến | 1930 | 3/1948 | D.118 | 8/1951 | L.Thịnh | |
21 | Hà Văn Thưởng | 1926 | 3/1948 | D.118 | 8/1951 | M.Ngọc | |
22 | Ngô Văn Mão | 1927 | 2/1952 | D.304 | 1/1960 | N.Sơn | |
23 | Lê Hữu Mùi | 1928 | 6/1952 | F.335 | 7/1958 | L.Thiện | |
24 | Lương Văn Phú | 1927 | 9/1954 | D.325 | 9/1959 | T.Thành | |
25 | NguyễnNgọcTưởng | 1924 | 2/1949 | E.57 | 6/1956 | N.sơn | |
26 | Thiều Đình Kịch | 1931 | 8/1952 | D.305 | 7/1957 | T.Thành | |
27 | Nguyễn Hữu Bính | 1929 | 8/1952 | D.305 | 7/1957 | T.Thành | |
28 | Chu Văn Bàn | 1926 | 4/1948 | F.335 | 9/ 1958 | T.Thành | |
29 | La Xuân Minh | 1933 | 6/1953 | E.359 | 2/1959 | L. Thiện | |
30 | Trần Hợp Khải | 1934 | 10/1953 | F.308 | 10/1957 | N.Sơn | |
31 | Trần Hợp Đạt | 1927 | 2/1949 | E.57 | 6/1956 | N.sơn | |
32 | Hoàng Viết Dốc | 1930 | 9/1952 | F.325 | 5/1958 | L.Thịnh | |
33 | Nguyễn Hữu Bính | 1929 | 6/1952 | F.335 | 7/1958 | L.Thịnh | |
34 | Lò Xuân Tranh | 1930 | 4/1948 | D.118 | 8/1950 | L.Thịnh | |
(1) | (2) | (3) | (4) | (5) | (6) | (7) | (8) |
35 | HuỳnhThanhQuảng | 1926 | 4/1948 | F.335 | 9/ 1958 | N.Sơn | |
36 | Lương Văn Thanh | 1923 | 9/1954 | D.325 | 9/1959 | T.Thành | |
37 | Lương Xuân Như | 1911 | 4/1948 | D.118 | 8/1950 | L.Thịnh | (L.sỹ) |
38 | Lê Đình Vát | 1927 | 5/1949 | N.Sơn | (L.sỹ) | ||
39 | Hà Văn Thọ | 1920 | 4/1948 | N./Thượng | (L.sỹ) |
b. Những đóng góp về kinh tế: Khôngcó ai rõ và cũng không có sách để lại.
4.2. Từ Năm 1954 đến 1975:
+ Số Lượng dân công hoả tuyến:
1.
2.
3.
4.
5.
+ Thanh niên xung phong:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.Bà: Vũ Thị Nhắn Thôn Trung Thành.
11.Bà: Hoàng Thị Thảnh Thôn Minh Quang.
12.Bà: Nguyễn Thị Hảo Thôn Ming Quang.
13. Bà: Hà Thị Hồng Thôn Minh Ngọc.
14. Bà: Lương Thị Thanh Thôn Minh Ngọc.